Pages

Thursday, June 2, 2011

So sánh cách trẻ em (bậc tiểu học ) học, được dạy và suy nghĩ ở Việt Nam và ở phương Tây qua cái nhìn của người quan sát

Trong thời gian học TESOL ở La Trobe University, Melbourne, Úc, tôi may mắn được tham quan học hỏi ở 1 trường tiểu học và được làm homework tutor trong 1 chương trình tình nguyện giúp trẻ em ở 1 trường tiểu học khác ở Melbourne Úc. Khi nói chuyện với 1 vài bạn tình nguyện viên của Mỹ đến trường nơi tôi đang dạy ở Việt Nam, tôi nghe các bạn ấy nói Mỹ và Úc tương tự nhau. Sau đây tôi mạo muội viết những so sánh giống nhau và khác nhau về cách trẻ em (bậc tiểu học ) học, được dạy, suy nghĩ ở Việt Nam và ở phương Tây qua sự quan sát của cá nhân tôi

* Giống nhau:

- Trẻ em là 1 tờ giấy trắng, hồn nhiên, tinh nghịch, tò mò và cũng biết suy nghĩ, chịu nghe người lớn giải thích.

- Môi trường như thế nào thì trẻ con sẽ như thế đó, là mẫu sao y bản chánh của người lớn.

- Trẻ em phân biệt được ai xấu, ai tốt với mình.

- Trẻ em có những điều chỉ kể với Ba Mẹ, không kể với Thầy Cô và ngược lại.


* Khác nhau:

Cảm nhận đầu tiên của tôi: khi hỏi trẻ em ở Úc về trường học như thế nào thì chúng thao thao kể cho nghe, mình không biết cách ngưng câu chuyện. Những người bạn Úc của tôi (người gốc Việt cũng như Úc Tây) đã dẫn tôi đến trường học cấp 1 của họ giới thiệu vì đó là là nơi họ cảm thấy vui , có nhiều kỷ niệm và nhớ về Thầy Cô của họ ( có khi không nhớ tên), dù bao năm rồi. Còn hỏi trẻ em ở Việt Nam về việc học thì bé nào cũng ngán và lắc đầu "Không biết chừng nào mới hết học ! Học hoài ! Con chỉ muốn đi chơi ..."



I. Luật pháp, môi trường XH nói chung:

1. Ở Việt Nam: trừ ba mẹ, người thân của trẻ con, những người thương yêu con trẻ và những phụ huynh tốt bụng, tử tế ra, trẻ con chỉ được ưu ái số 1 trên giấy tờ, không được ưu tiên số 1 trong thực tế.

+ Gia đình có tình trạng kinh tế khó khăn: ba mẹ, người lớn không có việc, con cái là nguồn lao động kiếm tiền cho cả gia đình (ở thành thị thì xin ăn, bán vé số, đánh giày; ở nông thôn thì mò cua bắt ốc, làm đồng, làm công việc nặng quá sức mình...). Ở thành thị, người lớn dạy cho nít nói dối, giả bộ đau khổ để làm việc cho mình, miễn để người khác thương và kiếm tiền. Ở nông thôn, người lớn dạy con nít làm công việc nặng nhọc, đi xa nhà làm người giúp việc, giúp gia đình, nuôi em và từ nhỏ trẻ em đã có khái niệm không làm thì không có ăn, không ai nuôi mình.

+ Gia đình có tình trạng kinh tế trung bình: Ba Mẹ người lớn sao thì con trẻ như vậy. Người lớn chọn ăn, mặc, vui chơi giải trí, trường học cho con theo khả năng và không thể bon chen trường chuyên, lớp chọn. Sợ con thua kém, mặc cảm bạn bè, con xin gì cũng lo đủ, không cho học gia sư riêng nhưng cho học thêm.

+ Gia đình có tình trạng kinh tế cao: ba mẹ, người lớn luôn dành những gì tốt nhất cho trẻ con từ ăn, mặc, vui chơi giải trí, trường học, chọn thầy chọn cô và để cho trẻ có suy nghĩ mình là số 1 ( ví dụ con luôn có chế độ ăn riêng, cái gì không ăn được thì bỏ qua chén cho Ba Mẹ; mặc đẹp như hoàng tử, công chúa, đồ hiệu, trường chuyên, lớp chọn, gia sư từng môn học tại nhà, bao nhiêu tiền cũng trả). Trẻ con có khái niệm nhà mình giàu hơn nhà bạn, mình muốn gì được nấy.


- Khi trẻ con đến chỗ công cộng làm đổ, bể, hư hỏng gì, đa số không lo đến trẻ em, coi chúng có bị làm sao, sợ hãi, tổn thương về cơ thể, tinh thần gì không mà chỉ lo đến giá trị đồ bị hư hỏng và bắt cha mẹ chúng đền.

- Ngoài đường thấy tận mắt, nghe tận tai những trường hợp trẻ con bị làm tổn thương về thể xác lẫn tinh thần nhưng những người đồng cảnh, phụ nữ thương trẻ con mới cứu giúp nhau, còn lại cả XH làm ngơ ( Lý do: người gây tội có thế lực mạnh, đụng vào mình bị liên lụy, vạ lây, thiệt thân; một vài lần ra tay giúp nhưng bị giăng bẫy, bị lừa nên có cảm giác đề phòng; nhiều hoàn cảnh xung quanh bị vậy, lo đến chừng nào mới hết; không phải con mình thì việc gì phải lo).

- Tổ chức lễ hay chương trình gì không màng đến trẻ con, trẻ con không có vé nhưng tò mò thì leo tường rào, leo cây để coi ké có thể bị bảo vệ bắt nhốt, tất cả là ưu tiên cho người lớn, cho người có vé, có tiền. Trong chương trình tổ chức sự kiện mời khách không có ghi chú cho trẻ con đi hay không, đám gì người lớn cũng ngại đi vì đưa con đi thì con khóc, sợ làm phiền, để con ở nhà thì bụng dạ không yên tâm ( ngồi ở nơi đây mà hồn ở nhà nghĩ về con).

- Người lớn không hướng dẫn trẻ con, giải thích cho chúng hiểu, trước đám đông khi trẻ con vấp điều sai thì có những trường hợp sau xảy ra:

+ Nhận xét, dạy đời, la mắng, chửi con người khác ( có khi chửi cả ba mẹ chúng vì không biết dạy chúng), chửi người lớn, binh con mình, về nhà đánh phạt, chửi mắng sau.

+ Nhận xét, dạy đời, la mắng, chửi con người khác ( có khi chửi cả ba mẹ chúng vì không biết dạy chúng), chửi người lớn, binh con mình, về nhà không giải thích cho con biết đúng, sai, lẽ phải mà thể hiện cho con biết con là số 1, nhất trên đời.

+ La mắng, đánh con mình trước chỗ đông người vì sợ phải bắt đền, sợ bị ảnh hưởng gì đó, về nhà cảm thấy hối hận và xin lỗi con.

+ Im lặng, không đôi co với con nít, dắt con về và giải thích cho con là phải biết cẩn trọng về sau và phải biết né tránh những đứa trẻ cần né tránh ( vì gia đình nó mạnh, vì mình yếu, vì sẽ không ai binh mình...)

- Người lớn được vô trường tự ý chụp hình trẻ con đăng báo chỉ cần có sự đồng ý của nhà trường.


2.Ở phương Tây: trẻ con được bảo vệ, ưu tiên số 1 trong pháp luật và trong thực tế. Người lớn ghét nhau có thể phỉ báng nhau nhưng sau lưng trẻ con, trước mặt con trẻ luôn nhẫn nại, âu yếm. XH luôn tìm cách động viên người lớn đưa trẻ đến trường, phụ huynh có thể vào lớp quan sát con học, bạn bè của con, phụ huynh có thể trở thành bạn của nhau sau một vài buổi đến trường cùng con. Trẻ con có tiền trợ cấp thì trường đều nói cho biết và nhắc là có về hỏi Ba Mẹ đã dùng số tiền đó mua đồ đúng như nhà trường đã dặn ko...

- Gia đình có tình trạng kinh tế từ cao – thấp thì trẻ con đều được đối xử như nhau ngoài XH và trong nhà trường. Không có trường hợp trẻ con phải lao động, làm việc để nuôi cả nhà, nếu có chỉ là giúp đỡ Ba Mẹ, phụ công việc nhà lặt vặt. Trẻ con làm bạn với nhau hết sức hồn nhiên, chơi với bạn không có khái niệm bạn giàu hơn, nghèo hơn nhà mình. Trẻ có thể rủ bạn thân trong lớp đến nhà mình ngủ. Trước khi trẻ đến nhà bạn thì nhà trường sắp xếp, thông báo, hỏi ý kiến phụ huynh bé rủ bạn đến nhà trước, phụ huynh có khó khăn gì cần nhà trường giúp đỡ thì lên tiếng. Mọi việc được chuẩn bị kỹ càng. Người lớn biết rõ về bạn của con, biết bạn của con có những tính cách gì, không nói xấu bạn con trước mặt con.

- Khi trẻ con đến chỗ công cộng làm đổ, bể, hư hỏng gì, người chủ và nhân viên nơi đó không lo về giá trị món đồ mà lo đến trẻ em, coi chúng có bị làm sao, sợ hãi, tổn thương về cơ thể, tinh thần gì không và xin lỗi cả ba mẹ chúng ( có khi vì tình thương trẻ con thật, đa số vì sợ phạm pháp, bị kiện). Ai làm tổn thương trẻ con mà người khác biết được đều có thể thưa báo với cảnh sát, pháp luật để nghiêm minh trừng trị.

- Tổ chức lễ hay chương trình gì cho người lớn phải chọn nơi xa trường học, không bao giờ được bắt trẻ con lại nhường chỗ cho người lớn, nghỉ học, để dành sân, dành chỗ cho người lớn. Trong chương trình tổ chức sự kiện mà ko cho trẻ con đi thì phải viết ra để người ta ko dắt con đi, trẻ con là số 1, người lớn phạm luật là người lớn bị tù. Những chương trình sự kiện có thông báo được trẻ con đi thì phụ huynh thường trả tiền rất thấp hoặc miễn phí. Trẻ con đi học bằng bus xa mấy cây số ba mẹ chúng cũng yên tâm là vì đi đâu chúng cũng được bảo vệ và chăm sóc tốt, bạn bè quan tâm và biết giúp nhau, ông lái xe bus cũng biết luật về trẻ con.

- Người lớn không được vô trường tự ý chụp hình trẻ con vì bất cứ lý do gì khi chưa có sự đồng ý của nhà trường và phụ huynh học sinh.


II. Mục tiêu của nhà trường:

1. Ở Việt Nam: tập trung dạy trẻ con kiến thức về tất cả mọi mặt 1 cách toàn diện tất cả các môn văn hóa và biết càng sớm càng tốt, 1 đứa trẻ đi học là cả gia đình cùng tất bật lo toan ( lớp 1 đã phải thi để xếp trường, xếp lớp), huấn luyện cho trẻ biết chỉ có học giỏi là số 1, điểm xấu là thất bại, đáng bị cười chê, thầy cô giáo nói gì cũng đúng, Ba Mẹ nói không giống ý cô giáo là không được, vào lớp thi đua, cạnh tranh nhau, chứng tỏ mình hơn bạn, khi bị điểm thấp thì buồn chán, tự ti.

2. Ở phương Tây: dạy trẻ con biết rõ về thầy cô giáo, bạn bè trong lớp, thành thật, công bằng, có trách nhiệm, khi có lỗi thì thành thật nhận lỗi và không đổ lỗi cho người khác, chia sẻ và giúp đỡ bạn bè, biết hợp tác, chấp nhận và thông cảm với bạn khi bạn khác biệt mình ( màu da, sắc tộc, thông minh, chậm chạp…), tôn trọng và thân thiện với mọi người xung quanh.


III. Phương pháp dạy:

1. Ở Việt Nam:

- phấn trắng bảng đen

- Thầy Cô là trung tâm chỉ thầy cô mới có quyền di chuyển trong lớp, Thầy Cô thường ngồi 1 chỗ, học trò ngồi bàn nào là phải ngồi yên cố định, cả lớp phải im lặng trật tự mới là ngoan. Thầy Cô nói gì, cả lớp lặp lại đọc theo y hệt. Chú trọng hình thức học thuộc lòng và trả bài đúng câu chữ.

- Thầy Cô đóng vai trò cung cấp kiến thức, nói hầu hết thời gian trong lớp. Những gì Thầy Cô dạy, nói luôn luôn đúng. Những gì Thầy Cô nói có thể chưa hiểu, hoặc không giống Ba Mẹ dạy cũng không được thắc mắc thêm hoặc được giải thích “ bao giờ lớn thì sẽ hiểu”.

- Khi muốn phát biểu phải giơ tay xin phép, Thầy Cô cho phép mới được quyền nói, trẻ nào trả lời đúng luôn được khen, trẻ nào trả lời sai, bị sửa lỗi trực tiếp.

- Khi phải lựa chọn hình thức, nội dung gì cho lớp làm chung, Thầy Cô giáo là người quyết định, trẻ con không có khái niệm thảo luận, bình chọn ( vote) mà lắng nghe và theo lời Thầy Cô tuyệt đối.

- Học trò không được cầm viết tay trái, thuận tay trái nhưng phải cầm viết bằng tay phải.

- Học sinh cá biệt thường là học sinh bị đánh giá là học dốt, ham chơi, Thầy Cô nói không nghe lời, hay nói chuyện riêng trong lớp. Học sinh cá biệt sợ thầy cô, sợ lên phòng ban giám hiệu và hằn học với những bạn nào nhìn mình với ánh mắt chê cười, không cảm thông.

- Cả trường không chú trọng học sinh cá biệt, chỉ đặc biệt chú trọng phát triển cho học sinh năng khiếu, học giỏi, tham gia phong trào giỏi để thi thố cấp trường, cấp quận, thành phố, quốc gia.


2. Ở phương Tây:

- lớp học như 1 xưởng đồ chơi, mọi thứ sắp xếp ngăn nắp, giờ nào việc nấy, đồ dùng của chung dùng chung cho cả lớp, đồ dùng riêng thì để trong hộc bàn trẻ ngồi, hộp tủ của trường, ra về có thể để lại trong hộc bàn, không ai lấy đồ của ai, bạn nào thiếu, để quên đồ dùng học tập thì bạn kế bên cho mượn và mượn xong thì trả lại. Trẻ luôn biết đồ dùng chung để ở đâu, biết giữ gìn cẩn thận vì lần sau sẽ sử dụng lại. Chương trình học giúp cho trẻ phát triển tính cách biết quan tâm, chia sẻ với người xung quanh, kỹ năng sống chung với bạn bè, ngoài XH, giúp trẻ nhận biết tình thương yêu với người xung quanh yêu thương gia đình, thương mến và giúp đỡ bè bạn, thương và quý trọng Thầy Cô giáo như Ba Mẹ ở trường.

- Thầy Cô di chuyển đều trong lớp để phát hiện và giúp học trò nào cần trợ giúp. Học trò có thể di chuyển trong lớp để trao đổi với bạn bè và tiếp tục làm công việc của mình.

- Thầy Cô đóng vai trò hướng dẫn và cân bằng lớp học, học trò là trung tâm, Thầy Cô dành thời gian để học trò luyện tập, trao đổi, phát huy sự sáng tạo.

- Những gì Thầy Cô dạy là hướng dẫn rõ ràng cụ thể, từng bước 1 để cá lớp đều hiểu cách làm, kiểm tra học trò có hiểu lời hướng dẫn và dành thời gian cho cả lớp luyện tập.

- Có điều gì chưa hiểu, chưa rõ trẻ có quyền hỏi trực tiếp trước lớp và cả lớp cùng nghe, nói ý kiến của mình về câu hỏi đó hoặc Thầy Cô giải thích và để cho học trò suy nghĩ thêm theo hướng của chính chúng. Thầy Cô luôn khuyến khích học trò đặt câu hỏi để biết trò muốn gì, trông đợi điều gì.

- Thầy Cô không la, mắng, sửa trực tiếp học trò ( cái này đúng – cái kia sai, phải nói như vậy mới chuẩn …), không dùng từ ngữ tiêu cực đối với các bé mà tôn trọng chúng như những người bạn.

- Khi phải lựa chọn hình thức, nội dung gì cho lớp làm chung, Thầy Cô giáo là người trọng tài, trẻ con trong lớp có quyền thảo luận và bình chọn ( vote), đa số thắng thiểu số và quyết định nghiêng về đa số sẽ được chọn.

- Học trò cầm viết bằng tay nào cũng được.

- Học sinh cá biệt là 1 bé hoặc 1 nhóm bé có biểu hiện buồn bực hoặc có hành vi, cử chỉ trực tiếp hay gián tiếp xúc phạm, làm quê bạn, nhóm bạn khác trong lớp về thể chất, tinh thần hoặc qua tin nhắn, trên mạng. Học sinh cá biệt không thích ở trong lớp nhưng thích nói chuyện với người lớn, Thầy Cô, Hiệu trưởng, những người mà chúng nhận ra là lắng nghe, trìu mến và quan tâm chúng, biết chúng cần gì.

- Cả trường chú trọng học sinh cá biệt, hội đồng nhà trường, Thầy Cô giáo bàn bạc thảo luận riêng và để ý hành vi, cử chỉ của em học sinh cá biệt trong lớp, phối hợp với gia đình để có phương pháp thích hợp, giúp em trở lại với lớp tự nhiên và tự tin. Không chú trọng phát triển cho 1 em học sinh năng khiếu nào riêng lẻ, học giỏi, tham gia phong trào giỏi để thi thố cấp trường, cấp quận, thành phố, quốc gia. Chú trọng về mặt thể chất và các mặt ca hát, thể thao, sở trường cho các bé theo hình thức tập thể.



IV. Chương trình học:

1. Ở Việt Nam: nặng nề, mang tính hình thức, nhồi nhét, học thuộc lòng, phải học quá nhiều môn học, vượt quá khả năng tâm sinh lý của trẻ, không nghiên cứu về tâm lý lứa tuổi khi biên soạn chương trình.

+ Học Toán cao khi khả năng tư duy, logic, suy xét chưa có.

+ Học văn bài mẫu

+ Các môn khác học thuộc lòng.

+ Các môn thủ công ngoài khả năng của trẻ, 1 là trẻ rất giỏi ( hiếm), 2 là Ba Mẹ anh chị làm dùm.

- Một bé đi học cả nhà cùng học, trẻ luôn đầu tắt mặt tối với bài tập trong lớp, về nhà, ăn cũng học, ngủ cũng nằm mơ thấy học. Ban ngày học ở trường, chiều tối học ở nhà thầy cô, với gia sư hoặc học thêm ngoại ngữ, cuối tuần cũng học, cả gia đình không có cảm giác thoải mái, vui chơi, tất cả hy sinh vì con.

- Không dạy cho trẻ con kỹ năng chia sẻ, học chung, làm việc chung với bạn bè, người xung quanh. Coi trọng cá nhân mình là độc tôn và thể hiện mình, muốn người khác phải biết về mình nên nói về mình, gia đình mình càng nhiều càng tốt.



2. Ở phương Tây: bài bản, không mang tính hình thức, mà tập trung kỹ năng của trẻ và để trẻ tự làm, trẻ luôn biết mình phải làm gì vào ngày học kế tiếp vì có sự dặn dò, ghi chép của Thầy Cô, dạy cho trẻ tư duy và phản biện ( suy nghĩ, nói ý kiến riêng của mình, thắc mắc câu hỏi của Thầy Cô, bạn bè, tự phân biệt và chọn lựa cái gì thích hợp với mình, không chê người khác và lắng nghe ý kiến của người khác). Chỉ học thuộc lòng 1 vài điều nhỏ ( viết chính tả), còn lại là lĩnh hội từ từ do thói quen, do tự học từ người lớn. Chương trình được biên soạn dựa vào khả tâm sinh lý, lứa tuổi cụ thể của trẻ, khi có những trường hợp xấu phát sinh thì Thầy Cô nêu lên trong trường để cùng nhau bàn bạc, tháo gỡ khúc mắc, tập trung phát triển sự sáng tạo của trẻ và giải thích khi cần thiết. Trẻ ngoài giờ học trên lớp không phải học thêm, cuối tuần thoải mái vui chơi, giải trí. Mỗi tháng trường có tổ chức cho trẻ trong trường ( có thể mời phụ huynh) tham gia hoạt động sơn sửa, làm mô hình cho trường, làm project sau khi học sinh đã thống nhất với nhau trong lớp ( vào trường vào sáng chủ nhật và báo trước cho phụ huynh)

- Học Toán đơn giản, cộng trừ nhân chia đơn giản.

- Không có bài văn mẫu, mỗi bài mỗi vẻ, ai cũng được khen ngợi. Trẻ biết về đạo văn, không được copy bài của người khác, người đi trước làm bài của mình

- Các môn đọc hiểu, viết chính tả, bài toán được thực hiện trong lớp và làm ở nhà, có kiểm tra và trong tầm khả năng của trẻ.

- Không có những môn ngoài khả năng của trẻ. Chú trọng dạy trẻ con những kỹ năng cơ bản trong môi trường cộng đồng và kỹ năng sống cho bản thân.

+ Kỹ năng sống trong môi trường cộng đồng : cám ơn chân thành khi người khác làm mình vui, xin lỗi và tránh đụng chạm người khác, lúc nào cũng có chữ “vui lòng”( please) khi nhờ ai giúp, cầu cứu ai làm việc gì cho mình, quan tâm và chia sẻ với người khác; sẵn sàng giúp đỡ người khác khi họ cần; luôn xếp hàng ( first comes, first serves) trong mọi trường hợp; biết quan tâm, động viên bạn bè, người thân khi thấy họ buồn, khóc, đau khổ; biết khen ngợi, khuyến khích, động viên người thân, người xung quanh, người nhỏ hơn mình khi thấy họ đáng yêu “ good boy”, “good girl”; biết bảo vệ người thân, bạn bè; biết góp ý người khác 1 cách gián tiếp, chân thành và không làm tổn thương họ trên tinh thần cùng nhau học hỏi ( I learn from you, and you learn from me), biết nêu ý kiến của mình và giải thích vì sao mình nói vậy, nghĩ vậy, làm vậy; thắc mắc khi người lớn nói mà không hiểu, thắc mắc về những điều xung quanh với Ba Mẹ, bạn bè, yêu thương cây cối, động vật, môi trường xung quanh.

+ Kỹ năng sống cho bản thân: làm người tự giác lo cho mình, không ỷ lại người khác; té thì đứng dậy, đi tiếp; có lỗi thì nhận lỗi và không ai cười chê mình; biết cầm muỗng nĩa, phân biệt tô, ly, chén nào trong bàn ăn, các loại tiệc ( cái này giúp khi ra đời ai cũng như ai, không phân biệt giàu nghèo, lịch sự, quê mùa); biết cầm dao đúng cách, biết thức ăn nào đi với nước chấm gì, biết tự mặc áo quần, biết làm món ăn mà mọi người hay ăn, chọn môn thể thao, âm nhạc, hội họa mình ưa thích; biết về nơi xung quanh mình ở; biết thích nghi với mọi hoàn cảnh ( ở trường, ở nhà bạn, sinh hoạt ngoài trời, đi picnic…)

V. Tuyển giáo viên

1. Ở Việt Nam: giống nhau trên giấy nhưng bên trong có những qui luật bất thành văn mà chỉ có người đi xin việc và người nhận việc mới biết. Không cần biết tiền sử người nộp đơn có vi phạm luật giáo dục ở trường khác, nơi khác không.


2. Ở phương Tây: qui tắc đầu tiên để nộp đơn xin làm giáo viên là phải có đầy đủ bằng cấp đào tạo bài bản do 1 trường đại học cấp bằng, có chứng chỉ đào tạo về dạy trẻ con theo qui định của bang, nước đó; có giấy tờ duyệt của cảnh sát nước đó (Police Check ) là người xin việc không phạm tội, không có hành vi xấu với trẻ con, xin việc volunteer hay trả tiền đều phải có có thẻ “ Làm việc trong môi trường trẻ con” ( Working with children check ). Ở Úc thẻ này có giá trị 5 năm, hết thời hạn phải làm lại và trong thời hạn mà vi phạm gì về luật bảo vệ trẻ em sẽ bị thu hồi thẻ. Tất cả giáo viên phải có kỹ năng giao tiếp tốt và đáp ứng những nhu cầu của trường học đề ra trong môi trường trẻ con.


VI. Dạy trẻ em học ngoại ngữ ở 2 nơi

1. Ở Việt Nam: đa số giáo viên trong các trường là giáo viên Việt Nam. Trình độ, khả năng ngoại ngữ của giáo viên chưa cân bằng giữa vùng, miền, thành thị, nông thôn. Ở nhiều nơi vùng miền xa xôi, ngoại ngữ được học bằng môn thay thế hoặc bắt đầu học ngoại ngữ từ lớp 10 ( hệ 3 năm). Trẻ em ở thành thị có nhu cầu, điều kiện học ngoại ngữ tốt hơn, giao tiếp tốt hơn trẻ em ở nông thôn, miền núi, miền xa. Tình trạng đó gây ra nhữngthái độ, hành vi tâm lý học ngoại ngữ khác nhau ở trẻ:

+ Trẻ em nhà không có điều kiện kinh tế khó khăn hoặc ở môi trường nông thôn, miền núi, miền xa : trẻ có cảm giác sợ học ngoại ngữ, học ngoại ngữ gặp khó khăn, thua sút bạn bè khi ở môi trường đại học, cao đẳng.

+ Trẻ em nhà có điều kiện kinh tế trung bình và ở nơi có môi trường học tiếng Anh bình thường: nói tiếng Việt vững và học ngoại ngữ cố gắng, khi đam mê và yêu thích môn học từ nhỏ thì chính các em sẽ tìm mọi cách học tốt.

+ Trẻ em nhà có điều kiện kinh tế khá giả, nhà ở thành thị, trung tâm: được gửi học trường quốc tế, trường tiếng Anh do người nước ngoài dạy hoặc được gửi học ngoại ngữ từ rất sớm. Nhiều gia đình có tâm lý “sính ngoại”, thích con học ngoại ngữ tốt từ nhỏ nên luôn khuyến khích con nói ngoại ngữ trong trường học, ở nhà lẫn môi trường xung quanh nên có trường hợp trẻ nói giỏi tiếng Anh hơn tiếng Việt, sống trong môi trường Việt Nam mà cứ nghĩ như mình đang ở nước ngoài. Trẻ vào lớp có khi chê Thầy Cô giáo ngoại ngữ người Việt ra mặt, phụ huynh tự hào với người xung quanh là con mình giỏi ngoại ngữ. Nhiều trẻ em học ngoại ngữ được đi học với người nước ngoài thích hơn học với Thầy Cô Việt, luôn muốn nói chuyện với người nước ngoài.



2. Ở phương Tây: vì môi trường đa văn hóa, đa sắc tộc nên các trường học tuyển mời giáo viên dạy ngoại ngữ có gốc nói tiếng mẹ đẻ ngôn ngữ đó ở trường họ. Mỗi trường có ngoại ngữ khác nhau tùy theo cộng đồng dân vùng nào ở nhiều nhất ở vùng có trường học đó. Ví dụ: suburb vùng đó có nhiều dân Ý, Hy Lạp thì ngoại ngữ trong trường là 2 tiếng đó, suburb vùng nào có nhiều người Indonesia, Ả Rập thì trường đó dạy 2 ngoại ngữ đó.

VII. Suy nghĩ của trẻ em ở Việt Nam về việc học tiếng Anh và suy nghĩ của trẻ em gốc Việt ở phương Tây về việc học tiếng Việt

1. Giống nhau: Ở Việt Nam hay phương Tây, trẻ con đều nghịch ngợm, thích làm những gì mà người cùng tuổi, cùng trường đang làm và càng khác người càng tốt; thời công nghệ thông tin và internet phát triển, trẻ con ngày nay đang biến hóa ngôn ngữ viết theo cách riêng của chúng, theo phim ảnh, Internet, youtube, tin nhắn, email … mà nếu người lớn không tìm hiểu thì sẽ không hiểu ngôn ngữ viết của trẻ con bây giờ. Nếu như ở Việt Nam, người lớn , Ba Mẹ, Thầy Cô giáo đang đau đầu với chữ viết tiếng Việt, ngôn ngữ chat, trong bài văn, tin nhắn của trẻ con thì ở phương Tây cũng y hệt vậy, tiếng Anh cũng đang bị biến tấu đủ kiểu. Ngay cả những nhà ngôn ngữ phương Tây cũng không hiểu con họ viết gì khi nhắn tin, email cho họ. Tôi còn nhớ năm 2007 dự hội thảo TESOL tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, 1 nhà ngôn ngữ nổi tiếng kể câu chuyện rằng vợ chồng ông đi dạy ở Thailand và email là phương tiện liên lạc với cậu con trai đang học ở Mỹ. Hai vợ chồng ông hỏi con đủ thứ, lo lắng cho con và viết ngôn ngữ bình thường trong email. Bao nhiêu chờ mong hy vọng cuối cùng đứa con trả lời email bằng 1 ký tự ngắn gọn “k”. Sau đó ông hỏi Ba Mẹ của người bạn mới biết đó là chữ “ok”, có nghĩa là mọi việc đều ổn. Không chỉ trẻ con mà teen, người trên teen và thanh niên dễ tính đều có thể vô thức bắt chước ngôn ngữ biến tấu kiểu này và mất dần ngôn ngữ mẹ đẻ.

2. Khác nhau
:

- Ở Việt Nam: Trẻ em nào cũng thích học tiếng Anh vì hầu hết phim hoạt hình vui nhộn sản xuất ở Mỹ, phim Harry Porter… hiện nay đều là ngôn ngữ tiếng Anh, bài hát tiếng Anh dễ thương, các bạn nhỏ nước ngoài cũng hồn nhiên, vô tư như mình. Các em thấy người nước ngoài đi ngoài đường thì thích phong cách của họ, ai cũng yêu con nít và chụp hình ảnh của trẻ con rất tự nhiên, không áp đặt trẻ con phải làm kiểu làm mẫu. Bảng chữ cái tiếng Anh thì nhớ hết ( vì dễ thuộc và học qua bài hát), còn hỏi bảng chữ cái tiếng Việt có bao nhiêu ký tự chưa chắc trả lời được.

- Ở phương Tây: Trẻ em gốc Việt thích học ngoại ngữ trong trường mà chúng cảm thấy chúng có thể cảm thụ tốt, Thầy Cô dạy dễ hiểu, vui nhộn, được luyện tập với bạn bè và không có tính áp đặt, không giải thích. Tôi tình cờ hỏi 1 vài bé học tiếng Việt ở Úc thì các bé nói không thích học tiếng Việt ở trường dạy tiếng Việt ( ở trường và cả ở trường Việt ngữ ngày chủ nhật) và vì thương Ba Mẹ trả tiền, chở đi học nên mới đi học chứ cách dạy không mang lại hứng thú, phải ngồi yên 1 chỗ trong lớp, Thầy Cô nói nhiều, các bé phải lặp lại theo và không hiểu tại sao, Thầy Cô chỉ khen ngợi những bé học giỏi, làm bài tập đầy đủ trong lớp, la rầy hoặc không để ý những bé khác không theo kịp, nên đa số chỉ mong đợi đến giờ ra chơi. Ra chơi thì tất cả trẻ con bu lại và nói tiếng Anh. Khi làm bài tập trong sách tiếng Việt thì có những câu không muốn trả lời vì hỏi cá nhân, riêng tư, trong trường học các em học hằng ngày, không bao giờ hỏi chuyện riêng tư của người ta như thế ( ví dụ: Nhà em ở đâu ? Nhà em có mấy anh chị em ? Cha mẹ em làm nghề gì ? Nhà em có hạnh phúc không ?...) Trẻ em nói học tiếng Việt hiệu quả nhất là từ Ba Mẹ nhưng Ba Mẹ phải đi làm, không có thời gian nói chuyện.


VIII. Người học TESOL tại Úc đến từ Trung Quốc ra trường làm gì ở Úc ?

Đa số SV quốc tế các nước phương Đông, các nước đang phát triển ( Việt Nam, Indonesia, Campuchia, Lào… ) học TESOL để trở về nước dạy tiếng Anh cho học trò nước mình. SV các nước phát triển và sử dụng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ ( Mỹ, Úc, Anh, Canada…) học thêm bằng, chứng chỉ TESOL để đáp ứng tiêu chuẩn về bằng cấp để đi dạy tiếng Anh ở các nước cần họ và các nước đang trả tiền cao cho giáo viên nói tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ ( Nhật, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc). Còn SV Trung Quốc học TESOL, giáo dục tiểu học không phải để trở về nước mà để xin dạy tiếng Hoa ở các trường tiểu học ở Úc, dạy tiếng Hoa ở trong các trung tâm , trường Hoa ngữ ở Úc. Họ đã đi trước tất cả các giáo viên các nước 1 bước ở chỗ họ học cách dạy tiếng Anh để hiểu tâm lý lứa tuổi vừa học văn hóa của phương Tây để biết trẻ con trong trường học ở Úc muốn gì học như thế nào để dạy tiếng Hoa cho hiệu quả và trẻ con luôn thích học tiếng Hoa. Tài liệu học TESOL trong lớp các sinh viên quốc tế phải đọc bằng tiếng Anh để làm bài , SV Trung Quốc đọc tài liệu tương tự bằng tiếng Hoa ( người đi trước đã dịch tiếng Anh ra thành tiếng Hoa hầu như tất cả các cuốn sách về phương pháp giảng dạy tiếng Anh ...) và khi tranh luận với lớp, họ đọc tài liệu bằng tiếng Hoa và dịch ra tiếng Anh.


Vậy thì đâu là nguyên nhân làm mai một tiếng Việt ? Có phải chính suy nghĩ và cách làm của người lớn là nguyên nhân làm mai một tiếng Việt chứ trẻ em thì rất vô tư ?

No comments: