Trong 2 năm học ở Úc, tôi không quả quyết là biết nhiều, biết cặn kẽ, sâu xa về XH Úc, nhưng qua quan sát những gì xảy ra xung quanh tôi tận mắt thấy, tai nghe trong thực tế, đọc trên báo chí, truyền hình Úc và những người tôi gặp ở Úc thì quyền lợi của trẻ em, phụ nữ, người già, người khuyết tật, người đồng tính, song tính, hoán tính ở Úc và ở VN có những điểm giống nhau và khác nhau cơ bản.
* Giống nhau: pháp luật 2 nước đều qui định rõ ràng về quyền trẻ em, bình đẳng giới, người già, người khuyết tật, các dân tộc anh em rõ ràng trên giấy viết.
* Khác nhau:
I. Quyền lợi trẻ em, vị thành niên
1. Luật thành văn về quyền trẻ em:
* Ở Việt Nam: Quyền trẻ em ở Việt Nam được qui định ở đây: http://cenforchil.org.vn/vn/detail/?gid ... 98&cid=451
- Việt Nam là nước ký Công ước Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em năm 1990 gồm 4 quyền
+ Quyền được sống còn
+ Quyền được bảo vệ
+ Quyền được phát triển
+ Quyền được tham gia
Link: http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_ ... 1%BA%BB_em
- Thực tế hiện nay: trẻ em cấp 1 có quyền học, vui chơi nhưng chương trình học không thích hợp, mang tính áp đặt, nhồi nhét, học thuộc lòng, các em không biết chơi là gì, ngày học văn hóa, tối học ngoại ngữ, 1 trẻ học là cả nhà cùng học. Trẻ em không được nhà nước trợ cấp tiền hàng tháng đã đành, cũng không có hình thức khám bệnh tự kỷ ( autism) do cách giáo dục của gia đình, nhà trường gây ra.
* Ở Úc: Quyền trẻ em ở Úc được qui định rõ ràng và được thi hành đúng trong XH Úc
Quyền trẻ em ( dưới 18 tuổi): http://www.hreoc.gov.au/human_rights/ch ... index.html
Trẻ chưa đi học: http://www.earlychildhoodaustralia.org. ... index.html
- Thực tế: trẻ em là đối tượng được bảo vệ, chăm sóc, dạy dỗ theo chương trình tâm lý lứa tuổi rất tốt. Một tuần các em học 5 buổi (từ 9h sáng à 3h chiều), cuối tuần nghỉ. Mọi trẻ em điều kiện gia đình thấp – cao đều được XH trợ cấp tiền và phụ huynh phải sử dụng đúng tiền để lo cho các bé. Trẻ em Úc được chính phủ Úc khám bệnh tự kỷ ( autism) miễn phí. Phần lớn những trẻ em bị tự kỷ do gia đình ít nói chuyện với con, ít tiếp xúc với bạn cùng lứa hoặc trong gia đình có nhiều ngôn ngữ. Khi phát hiện trẻ có dấu hiệu tự kỷ, chính phủ lại cho 1 phần trợ cấp khác để giúp Ba Mẹ bé chữa trị đến nơi đến chốn.
2. Tuyển giáo viên dạy trẻ em
* Ở Việt Nam: giống nhau trên giấy nhưng đôi khi có những qui luật bất thành văn mà chỉ có người đi xin việc và người nhận việc mới biết. Không cần biết tiền sử người nộp đơn có vi phạm luật giáo dục ở trường khác, nơi khác không, có qua trường lớp, hiểu tâm lý trẻ con không.
* Ở Úc: qui tắc đầu tiên để nộp đơn xin làm giáo viên là phải có đầy đủ bằng cấp đào tạo bài bản do 1 trường đại học cấp bằng, có chứng chỉ đào tạo về dạy trẻ con theo qui định của bang, nước đó; có giấy tờ duyệt của cảnh sát nước đó (Police Check ) là người xin việc không phạm tội, không có hành vi xấu với trẻ con, xin việc volunteer hay trả tiền đều phải có có thẻ “ Làm việc trong môi trường trẻ con” ( Working with children check ). Ở Úc thẻ này có giá trị 5 năm, hết thời hạn phải làm lại và trong thời hạn mà vi phạm gì về luật bảo vệ trẻ em sẽ bị thu hồi thẻ. Tất cả giáo viên phải có kỹ năng giao tiếp tốt và đáp ứng những nhu cầu của trường học đề ra trong môi trường sư phạm, giáo dục.
3.Pháp luật đã thực thi như thế nào về quyền trẻ em:
* Ở Việt Nam: trẻ con vô tình hay cố ý bị người lớn bắt làm công cụ lao động ngoài sức lực, ảnh hưởng tâm sinh lý.
+ Thành thị: bán vé số, lớn thì tự đi bán, nhỏ thì được ẳm ngửa trên tay; đánh giày, xin ăn, bán dạo ở khu vực công cộng, làm thuê bất cứ nghề gì, khiêng vác, xây dựng, khu chế xuất ( chủ thuê lậu) …
+ Nông thôn: lên thành phố làm nghề giữ em, giúp việc, hoặc ở nhà mò cua, bắt ốc, chăn trâu, nhổ cỏ, làm công việc đồng áng, làm mướn.
+ Trẻ con chết oan, bị thương tật vĩnh viễn rất thương tâm do lỗi của người lớn, thấy sai mà vẫn để im, dư luận lên tiếng rầm rộ mới vào cuộc: đi học về đắm thuyền , ghe, đò chết, dây điện rớt xuống chết, cột điện ngã trúng chết, tai nạn giao thông do lỗi tắc trách của người lớn, đường xá chết, đi ăn nhà hàng với ba mẹ chết, bị hãm hiếp chết.
+ Từ Nam chí Bắc đều có những vụ hành hạ, tra tấn trẻ con trong trường, trẻ giúp việc và trong các trường mẫu giáo, cấp 1, học trò vẫn bị các cô giáo đánh vô tội vạ. Nhiều người nghèo cũng ráng lo tiền cho Cô giáo giữ trẻ để con mình được đối xử tốt, được để ý và vì ai cũng cho, con mình không cho sợ bị đì…
+ Những vụ việc hãm hiếp trẻ con vỡ ra thì XH căm phẫn, bức bối và lo sợ cho con cái mình: Thầy giáo hiếp học trò, ông cụ trong xóm hiếp bé gái, cha dượng hiếp con vợ, Thầy hiệu trưởng mua bán dâm học trò cho mình và quan chức, những vụ mua bán trinh trẻ em, trẻ em bị mua bán trinh theo đường dây, bác sĩ lừa, dụ dỗ bệnh nhân vị thành niên… Tùy vụ xử lý nặng nhẹ khác nhau, có vụ học trò kiện Hiệu trưởng mà đổi trắng thay đen, chỉ có gia đình có con là nạn nhân là ôm con lãnh đủ và không biết làm thế nào để giải thích cho con, làm nguôi ngoai vết thương tinh thần của con đến suốt cuộc đời .
+ Học trò nữ cấp 2, 3 thì bạo lực học đường, xé áo đánh đập bạn rồi quay phim, gửi lên mạng, hết trường này đến trường khác. Học trò nam thì đứng nhìn, cổ vũ…
+ Học trò nam, nữ nhuộm tóc màu, cắt theo người mẫu nổi tiếng trong và ngoài nước, tài tử Hàn Quốc, Nhật, nam đeo khuyên tai, để tóc dài, xăm tay, lưng, chửi thề, văng tục, hỗn láo với người lớn, Thầy Cô.
* Ở Úc: Mọi hành vi xâm phạm trẻ em từ cơ thể đến tinh thần đều bị pháp luật trừng trị xác đáng, bị ở tù. Ở trung tâm, nhà trẻ (childcare) nếu bé có vết gì trên cơ thể, ngã té thì cô giáo phải biết bản báo cáo cho nhà trường và phụ huynh biết. Thầy Cô giáo sẽ bị mất việc vĩnh viễn, bị ở tù nếu làm gì tổn hại đến cơ thể, tinh thần bé.
Những gì xảy ra do lỗi của đường xá, công trình công cộng là chính phủ Úc điều tra, khắc phục ngay lập tức để trừ hiểm họa về sau. Vì 1 mạng người mà họ sẵn sàng bỏ ra tất cả tiền bạc, công sức để truy tìm thủ phạm, xét xử đến nơi đến chốn, những vụ còn bí ẩn thì họ luôn theo dõi đến nơi đến chốn đem lại công bằng, lẽ phải.
Những trường hợp mà tôi đã biết qua truyền hình, báo chí, Internet khi còn ở Úc và về VN
1. Người cha mất nhân tính quăng con xuống cầu West Gate, Melbourne
http://www.theage.com.au/national/bridge-death-man-on-murder-charge-in-acute-psychiatric-state-20090129-7sb7.html
http://www.theage.com.au/victoria/indescribable-darceys-mum-breaks-down-in-court-20110401-1cral.html
Pháp luật Úc xử tù chung thân
http://news.theage.com.au/breaking-news-national/bridge-throw-dad-to-appeal-life-sentence-20110512-1ejw1.html
2. Người đàn ông lạm dụng tình dục, hiếp dâm trẻ con dư luận đoán phạt 26 năm tù giam
http://news.theage.com.au/breaking-news-national/long-jail-term-for-sex-offender-urged-20090424-ahjt.html
Tòa án tuyên bố 27 năm
http://news.theage.com.au/breaking-news ... -b2qa.html
3. Tháng 3 năm 2010, nếu ai có theo dõi vụ án chính phủ Ấn Độ lên án gay gắt chính phủ Úc sau khi 1 em bé Ấn Độ 3 tuổi sang Úc chơi với Ba Mẹ bị giết ở 1 vùng ngoại ô Melbourne, bang Victoria
http://news.theage.com.au/breaking-news ... -q9sa.html
Dư luận hết sức căm phẫn, vụ án được cảnh sát điều tra và tìm được hung thủ chính là người ở chung nhà với gia đình bé đó, cũng là người Ấn Độ đang cư trú trái phép
http://www.theage.com.au/victoria/toddl ... -pme0.html
http://news.theage.com.au/breaking-news ... 1ad27.html
4. Nếu ai theo dõi báo Úc, Facebook đều biết cuối năm 2010 có vụ 1 nữ học sinh (vị thành niên) 17 tuổi đã tung hình ảnh của mình với cầu thủ bóng footie nổi tiếng của đội bóng St Kilda tên là Nick Riewoldt lên Facebook và mọi người đã theo dõi, bàn luận về sự thật bên trong. Ai cũng nói cô gái này hư hỏng, muốn kiếm chác. Cô ta ra tòa, phải xin lỗi rằng mình sai…
http://www.theage.com.au/afl/afl-news/s ... 19612.html
Cảnh sát Úc vẫn theo dõi và cuối cùng đã tìm ra sự thật: Nick Riewoldt nói dối và dùng tiền , tin nhắn bịt, nhưng pháp luật nghiêm minh cùng cảnh sát đã chứng minh lẽ phải, bảo vệ trẻ vị thành niên.
http://www.theage.com.au/afl/afl-news/n ... 1ea6f.html
http://www.theage.com.au/afl/afl-news/s ... 1b0fx.html
II. Quyền phụ nữ, bình đẳng giới:
Liên hiệp quốc qui định về quyền phụ nữ, quyền bình đẳng giới ở đây: http://en.wikipedia.org/wiki/Women%27s_rights
1. Ở Việt Nam: được qui định theo văn bản ở đây: http://hoilhpn.org.vn/NewsDetail.asp?Ca ... 41&lang=VN
Nguyen ( 2007) đã viết “Từ lâu người phụ nữ Việt Nam không những được xem là người quản lý kinh tế và tài chính trong gia đinh, “tay hòm chìa khóa” mà còn nắm vai trò quyết định trong việc giáo dục nhân cách cho con cái: “Phúc đức tại mẫu”, “Con dại cái mang”. ( Link: http://web.ou.edu.vn/vietnam/files/taps ... page98.pdf)
Trong XH VN ngày nay, người phụ nữ vẫn giữ được nét đó, vừa làm mẹ, làm vợ vừa lo làm ở sở, ngoài XH, về nhà lo chồng, con tất tần tật nên định nghĩa vui tiếng Anh rất đúng với chữ vợ ( WIFE) từ xưa đến nay : giặt giũ ( Wash), ủi đồ (Iron ), mua sắm, nấu nướng, nội trợ cho chồng con ( Food) và phục vụ chồng ( Entertainment). Ở Úc thì lại khác, phụ nữ kiếm người hợp với mình mới lấy và luôn quan niệm người đàn ông đó cư xử với họ như 1 công chúa ( treat her as a princess). Trong mọi ngành nghề ở XH Việt ngày nay đều thấy bóng dáng phụ nữ từ ngành nghề nặng nhọc ( không giành cho những người chân yếu tay mềm) như làm ở hầm mỏ, phụ hồ xây dựng ... đến buôn bán, ngành nghề dịch vụ giao tiếp, tâm lý, sư phạm. Đàn ông VN nóng tính và bốc đồng nên hở chuyện gì ra thì để phụ nữ đi năn nỉ, xin xỏ cấp trên dùm. Lo bệnh tật con cái, thức đêm hôm cũng là người nữ.
Ở thành thị đông đúc thì đàn ông ngồi quán cà phê buổi sáng, quán cơm trưa hoặc quán beer hơi, beer ôm buổi trưa, quán nhậu, karaoke, massage buổi tối, đâu đâu cũng là nữ phục vụ và vợ con ở nhà ngóng trông và về được giải thích là “đi quan hệ làm ăn”. Ở nông thôn thì đàn ông buồn vui, họp mặt, không chuyện gì làm cũng giải trí bằng rượu. Rốt cuộc, người phụ nữ, người mẹ, người vợ ở XH VN đều khổ cả thể xác và tinh thần. Chưa kể, luật bảo vệ bà mẹ chưa được thực hiện đúng, gia đình nhà trường không giáo dục, XH không lên án, truyền hình còn làm phim coi việc đó là đương nhiên, những cô gái trẻ vô tình và cố ý giựt chồng, giựt cha của gia đình người khác mà coi là chuyện bình thường. Chưa kể những cô gái đó còn được báo đài lăng xê làm hình ảnh thành đạt cho thế hệ trẻ. Rồi bao nhiêu vụ đánh ghen giữa những người phụ nữ hoặc bao nhiêu cảnh người vợ cam chịu ôm con khóc, li dị thì đứa con không được sự chăm sóc chu đáo, không được bồi dưỡng nhân cách và tinh thần đầy đủ của cả cha và mẹ. Người mẹ khi ấy vừa làm mẹ lại vừa làm cha.
Đối với các cô gái trẻ: XH không tạo công văn việc làm, không có tiền học hành, các cô gái trẻ ở thôn quê cứ thấy hình ảnh bà, mẹ mình khổ, ông, cha thì chè chén đánh đập vợ con, đàn ông cưới vợ tìm người môn đăng hộ đối… nên hễ nghe ai dụ dỗ là qua nước ngoài lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc dù không biết người ta ra sao, không tìm hiểu, bị người đàn ông ngoại quốc tuyển như lựa chọn hàng, xăm xoi.. cũng đi. XH trách, lên án các cô gái miền Tây, riêng tôi vẫn thấy điểm tốt : cố gắng làm lụng gửi tiền về giúp đỡ gia đình, nuôi em. Là người phụ nữ sống tình cảm, ai mà không muốn ở gần mẹ cha, có tấm chồng tử tế và được giao tiếp bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Có chồng thì phải nuôi con, chồng không cung cấp tiền đầy đủ, lại chè chén suốt ngày, say xỉn thì thượng cẳng chân hạ cẳng tay, chưa kể vợ nhí, con rơi ngoài XH…Khi li dị thì người chồng không cấp tiền nuôi con hoặc có khi có có khi không.
Những cô gái khác “khôn” hơn, lanh hơn thì rút kinh nghiệm không lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc thì lên SG, về Hà Nội, nơi có những đại gia, người Việt từ nước ngoài, Tây ba lô để theo và ăn bám. Từng ở Úc 2 năm, đến đường Phạm Ngũ Lão, quận 1, TP.HCM mà tôi có cảm giác rơi vào 1 thế giới nào chứ không phải Việt Nam, cũng không phải Úc. Những cô gái Việt Nam đủ vùng miền ăn mặc, trang điểm vằn vện đi theo Tây ba lô, những người Việt già tuổi đáng tuổi cha, ông mình, những đại ca giàu có đầy cả dãy phố về đêm. Chắc hẳn những anh Honda ôm, taxi, xích lô người Việt ngậm ngùi lắm. Làm sao tôi có thể nói các cô, giúp các cô, rằng những người đó chỉ muốn tình dục, rằng các cô làm vậy là hạ thấp người phụ nữ Việt Nam. Tôi bất lực, tự đặt mình vào hoàn cảnh các cô, tiền không có, nghề nghiệp cũng không, chỗ nào cũng phải có tiền hoặc có quen mới xin được thì phải lấy tài sản tự có để nuôi mình.
Những cô gái đang yêu thì không biết người yêu của mình sẽ bỏ mình lúc nào. Thấy bạn gái có khó khăn hoặc sợ nhờ vả, không có bản lĩnh thì chia tay. Có những nam thanh niên lười nhác, tha hóa đam mê những trò cá độ, đá gà, đánh đề, đánh bài ăn nhờ vào bạn gái. Có những nam thanh niên không coi trọng con gái mà còn truyền nhau bí quyết, thách thố nhau: cua được em đó để khẳng định mình rồi bỏ, hoặc làm tình thì quay phim, em có đi lấy chồng thì thảy lên Internet. Các em trẻ nổi tiếng bị tung ảnh, phim sex lên Internet thì không hổ thẹn mà còn khẳng định mình, dùng cơ thể, đường con để khẳng định mình hơn, XH nghèo thì mặc kệ, cứ thể hiện mình và bắt chước Tây trong phim Hollywood. Cứ thế, lớp trẻ thời nay bắt chước nhau 1 cách vô thức, lại những bà mẹ , phụ huynh sợ con mình dễ hư, không kiểm soát được vì bắt chước theo trào lưu, mốt của XH.
Đối với phụ nữ có tuổi: thay vì được ở nhà, vui vầy con cháu thì còn phải buôn gánh, bán bưng, đầu tắt mặt tối ngoài đường để lo cho chồng, con, cả gia đình và còn lo mất chồng vì những cô gái trẻ, nét mặt lúc nào cũng mỏi mệt và đầy lo âu.
2. Ở Úc: được qui định theo văn bản ở đây: http://www.dfat.gov.au/facts/women.html
Người phụ nữ được hưởng 1 cuộc sống thoải mái, đầy đủ, tôn trọng và bảo vệ về tinh thần, y tế, sức khỏe được chăm sóc đàng hoàng. Họ không bao giờ bị đánh đập, bị coi thường vì nếu cảnh sát biết người đàn ông sẽ bị bỏ tù. Đi đâu cũng thấy đàn ông chăm sóc, mở cửa, gallant, nhường phụ nữ. Nếu người phụ nữ đi ngoài đường cần sự giúp đỡ, lên tiếng thì người xung quanh, đàn ông sẽ giúp. Tôi thấy nếu 1 người chồng đi làm cho chính phủ, công ty đàng hoàng là vợ có thể ở nhà chăm sóc con cái. Đàn ông vừa đi làm kiếm tiền vừa chia sẻ công việc nhà với vợ, lo cho con ( thay tả lót cho con, giữ con cho vợ ăn khi đi tiệc, đi chơi với bạn bè). Họ không phải làm những công việc nặng dành cho đàn ông vì đàn ông có kỹ năng làm công việc, sửa chữa lặt vặt, dọn dẹp nhà. Người phụ nữ nuôi con ( do li dị, không đám cưới, chồng mất…) tiếng Anh Úc gọi là “single mum” thì được ưu tiên và trợ cấp tiền đủ nuôi mình và nuôi con đàng hoàng. Những cô làm trong thế giới tình dục thì phải có bằng, được khám sức khỏe, HIV đầy đủ, phải làm chỗ có đăng ký giấy phép và được bảo vệ theo luật pháp. Trẻ em gái mặc váy ngắn, dài đi ngoài đường, đàn ông thấy cũng không ai dám làm gì vì sẽ bị bỏ tù.
III. Quyền lợi của người cao tuổi:
1. Ở Việt Nam: luật ở đây: http://nguoicaotuoi.org.vn/story.aspx?i ... neparent=0
Ở VN, chỉ người làm cho nhà nước khi về hưu mới có lương hưu, còn những người khác thì chủ yếu là gia đình, những người hảo tâm, mạnh thường quân, tổ chức cá nhân, phi chính phủ ủng hộ. Những người cơ nhở, không gia đình phải ở khắp nơi, đầu hè xó chợ và còn những trường hợp muốn vô nhà dưỡng lão ( có tỉnh có, tỉnh không) thì phải chờ duyệt, xét, thủ tục, giới thiệu. Người chăm sóc ở viện dưỡng lão cũng có người có tâm, người không có. Lương của người về hưu cũng không đảm bảo cho họ đủ so với giá thị trường.
2. Ở Úc: luật ở đây: http://www.dredf.org/?gclid=CJSo3ZXt-6gCFdMOHAodBRSOUQ
Ở Úc, ai cũng có lương nếu họ là công dân Úc. Họ có đủ tiền để đảm bảo cuộc sống hằng ngày. Cứ 2 tuần 1 lần ( fornight) là họ được lãnh lương và không ai gây thủ tục khó khăn. Đối với những người già bệnh, họ được chăm sóc ở viện dưỡng lão tư. Vì văn hóa của Tây là con cái khi trưởng thành không sống với Ba Mẹ nên khi về già, nếu không có gia đình, họ sẽ tủi thân nhất. Nhưng dù sao đi nữa, họ được chăm sóc tốt, có tiền, được bảo hiểm suốt đời.
IV. Quyền của người khuyết tật, tàn tật.
1. Ở Việt Nam: luật ở đây http://www.molisa.gov.vn/news/detail/ta ... fault.aspx
Cá nhân tôi có cảm giác người khuyết tật chưa được chăm sóc, quan tâm đàng hoàng trong xã hội, nhất là chỗ công cộng. Nếu XH, tổ chức từ thiện, cá nhân không quan tâm thì họ sẽ rất tủi thân. Rất nhiều người khuyết tật từ Nam chí Bắc rất giỏi và nhiều tài, nhưng chỗ nào nhận họ? Rồi không ít người làm cho người nhà, ở nhà cho người nhà nuôi hoặc tập hợp lại với những người đồng cảnh ngộ, cùng sống, làm việc với nhau.
- Hầu hết những điểm công cộng ở VN khi xây dựng không có chỗ dành cho họ, ưu tiên cho họ. Họ phải leo tầng đi học, đi làm ( ở những chỗ không có thang máy), phải khổ sở khi xoay sở trong những nhà vệ sinh công cộng. Có những tòa nhà ở VN do nước ngoài xây ( có nhà vệ sinh cho họ) nhưng bị chiếm phòng này làm phòng để đồ cho quán xá, quán cafe.
2. Ở Úc: luật ở đây: http://www.hreoc.gov.au/disability_righ ... links.html
Người khuyết tật được XH quan tâm và chăm sóc chu đáo, được nuôi dưỡng, học hành đàng hoàng. Họ có tiền trợ cấp, có xe lăn tự động, có thể làm bất cứ ngành nghề nào trong XH ( từ ngân hàng, IT, giáo viên… đến nhà tâm lý trong trường học). Họ là người có tài, tốt bụng, hiểu người khác và sống tự nhiên, thoải mái, không hề có tâm lý là mình khiếm khuyết... Không ai phân biệt đối xử và ai cũng vui vẻ với họ.
- Tất cả những điểm công cộng ở Úc đều có chỗ ưu tiên nhất, gần nhất dành cho họ. Vào nước Úc từ sân bay đến trường học, siêu thị, bệnh viện, công ty… tất cả đều có toilet dành cho người khuyết tật rộng rải, thoải mái và dễ đến nhất. Chỗ cao tầng luôn có thang máy hoặc lối đi dành cho người khuyết tật. Khi đi xe lửa ( train), họ chỉ ngồi chờ ở toa nhất đó, tài xế xe lửa sẽ dừng lại, lấy tấm sắt giúp họ đầy xe vô toa 1, rồi khi dừng thì giúp họ ra.
V. Quyền của người dân tộc và dân tộc bản địa ở VN, người thổ dân ở Úc
1. Ở Việt Nam: luật ở đây: http://www.na.gov.vn/nnsvn/infodetail.a ... &maxid=200
Tôi không biết có bao nhiêu người dân tộc nằm trong quốc hội, nhưng đi đến đâu cũng thấy người dân tộc vẫn rất nghèo và tự họ bươn chải mưu sinh
- Miền Tây Nam Bộ ( ĐBSCL) có người Khomeh ở Sóc Trăng, An Giang còn nghèo lắm
- Người Hoa ở Tây Nam Bộ ( Sóc Trăng, Cần Thơ, Kiên Giang, An Giang và TPHCM) làm ăn giỏi và thành công.
- Miền Đông Nam Bộ ( Bình Phước ) có người Sóc Bombo “ Tiếng chày trên Sóc Bombo” nhưng tôi chưa tới nên chưa thấy
- Tây Nguyên ( Gia Rai, Đắc Lắc) có dân tộc thiểu số: sống làm rẫy, làm ruộng, cũng không có ai lo
- Người Chăm ( Bình Thuận, Ninh Thuận): cũng tình trạng nghèo tương tự, sống bằng nghề chăn dê , cừu, trồng trọt, nương rẫy.
- Người K’Ho ở Đà Lạt cũng ở gần đồi núi Lang Biang Đà Lạt co cụm và sống vất vả bằng nghề nương rẫy
- Người dân tộc ít người ở Sapa: họ nói ngoại ngữ rất giỏi, chế độ mẫu hệ và họ cũng bồng con ra chợ tự kiếm ăn nhờ vào khách du lịch.
2. Ở Úc: luật dành cho người thổ dân ( Aboriginal) ở đây : http://www.culturalsurvival.org/austral ... HAodYEHcRw
Nếu ai tìm hiểu về lịch sử Úc thì người Úc công nhận rằng người đầu tiên của nước Úc là người thổ dân (Aboriginal Australians (http://en.wikipedia.org/wiki/History_of_Australia). Khi mới qua Úc tôi được học trong chương trình hướng dẫn về văn hóa, xã hội Úc, các Cô giáo đã giới thiệu với lớp tôi và bày tỏ sự ngưỡng mộ Cựu thủ tướng Úc Kevin Rudd. Vị này là người đầu tiên trong lịch sử Úc vào 1 ngày tháng 2/ 2008 đã phát biểu xin lỗi chân thành đối với người thổ dân Úc về những thế hệ bị đánh cắp ( Stolen Generations ) mong họ tha lỗi những gì mà chính phủ Úc đã đối xử với những thế hệ con cháu người thổ dân gần 100 năm ( từ năm 1869 – 1970): đem các thế hệ con của người thổ dân vào trường học Úc và làm mất văn hóa của trong lịch sử nhân loại.. Tôi không phải là người Úc nhưng tôi nghe hiểu và cũng rơi nước mắt http://en.wikipedia.org/wiki/Stolen_Generations
Bài phát biểu ( his speech) ở đây: http://www.youtube.com/watch?v=b3TZOGpG6cM
VI. Quyền của người đồng tính, người song tính ( lưỡng tính) và hoán tính ( chuyển giới ) ( tiếng Anh là Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender – LGBT)
Lịch sử thế giới: “ Những phong trào của người đồng tính, song tính luyến ái và hoán tính/chuyển đổi giới tính đều có mục đích chung là đấu tranh để xã hội công nhận những người này.”
Link: http://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_tr%C3%A0o_LGBT
1. Ở Việt Nam: chưa có quyền này
Theo quan điểm cá nhân tôi, trót sinh ra làm người, không Ba Mẹ nào, đứa con nào muốn mình khác người khác. Ở XH tiến bộ là XH nhìn nhận mọi người có quyền bình đẳng như nhau. Tôi không viết nhiều vì tôi chưa tìm hiểu thế giới họ, nhưng những người bạn của tôi trên thế giới ( Úc, Mỹ, Canada..) đều có cái nhìn thiện cảm, thấu hiểu những người này. Tôi nghĩ, VN phải thừa nhận họ trong XH.
“ Nếu người đồng tính không hoàn toàn là con người (bất bình thường, tồi tệ, biến thái…), thì chúng ta có thể ngủ ngon hàng đêm khi từ chối họ những quyền cơ bản mà ta đang được hưởng. Còn nếu họ là những người bình thường, thì chúng ta đã chẳng hề làm gì ngoài việc giữ thái độ thành kiến khi không chấp nhận cho họ có những quyền mà chúng ta đang có. Các chuyên gia về sức khỏe tâm thần đã thống nhất trong việc xác định tính dục đồng giới là một biểu hiện tính dục bình thường của con người, và những người đồng tính là những người hoàn toàn bình thường như người có xu hướng tính dục dị giới, dù trong lịch sử, người ta đã từng không thừa nhận quan điểm này.”
Link: http://forum.hiv.com.vn/default.aspx?g=posts&m=163947
2. Ở Úc: lịch sử thừa nhận họ ở đây: http://en.wikipedia.org/wiki/LGBT_rights_in_Australia
Mai Đinh
Thursday, June 2, 2011
So sánh về người Việt ở Việt Nam - ở Úc và người Trung Quốc ở Úc kết nối với nhau qua cái nhìn của người quan sát - trong cuộc
A. Người Việt ở/ từ Việt Nam đến Úc và người Việt ở Úc
Bạn bè, người thân, đồng nghiệp, gia đình tôi, những người xung quanh tôi ở Việt Nam có gốc gác từ Bắc chí Nam và đủ các dân tộc. Bạn bè chung trường, chung lớp, anh chị em share nhà, đồng nghiệp của tôi, những người tôi gặp ở Melbourne, Sydney cũng có gốc gác từ Bắc chí Nam và đủ các dân tộc. Sống hơn 30 năm đời người, tôi luôn nghĩ mình phải đi học tâm lý để hiểu được người Việt, tôi lờ mờ nhận ra cộng đồng người Việt ở đâu cũng có những nét giống nhau rất điển hình của người Việt:
- Chủ nghĩa gia đình, họ hàng
- Thích danh tiếng, đánh giá con người qua ngành nghề, bằng cấp, sợ bị mất mặt.
- Có suy nghĩ ngầm không thiện cảm về người vùng miền khác, trong nước, ngoài nước.
- Không có tính cộng đồng, dân tộc cao, ỷ mạnh hiếp yếu.
- Dễ tin và mau quên
I. Chủ nghĩa gia đình, họ hàng:
1. Kết hôn:
- Điều tôi thích: truyền thống văn hóa, đạo nghĩa giữ trọn, thờ cúng gia tiên, tôn giáo đúng đạo, khi đám cưới luôn có mặt gia đình hai họ chung vui với con trẻ.
- Điều tôi không thích: còn nặng tư tưởng về “môn đăng hộ đối”, tử vi tướng số, chính trị và con cháu khi cưới vợ lấy chồng là cưới cho cả gia đình, họ hàng; người nào cũng bàn ra bàn vô, có những cặp yêu nhau thật sự mà không đến được với nhau vì những quan điểm tương tự như thế này từ bậc đi trước. Cặp nào can đảm lắm, lấy nhau thì về tư tưởng không thông, khi có chuyện gì không hay xảy ra thì “tại anh, tại em hồi đó không nghe lời của Ba Mẹ”.
2. Kiếm tiền lo lắng cho gia đình:
- Điều tôi thích: yêu thương đùm bọc nhau, không xá gì bản thân, khi ai có hoạn nạn, khó khăn, có bao nhiêu cũng dốc hết ruột gan giúp.
- Điều tôi không thích: Người nào giỏi, có trách nhiệm thì sống vì gia đình, cưu mang người vô tư, ích kỷ suốt đời, họ không xá gì bản thân mình cả về vật chất lẫn tình cảm. Rồi mỗi gia đình đối xử với họ hàng thì phải lo bên nội, bên ngoại, bên này đều, bên kia không, vợ chồng hằn học nhau, con cái thì tủi thân mà không thể nói. Ở Việt Nam ai có tiền thì trợ giúp người không có việc, ở thành thị trợ giúp ở nông thôn, người Việt ở Úc thì trợ giúp họ hàng, người nhà trong nước.
3. Nuôi dạy con cái:
- Điều tôi thích : Ba Mẹ sống hết mình vì con cái, không muốn con cái khổ hơn thế hệ mình, con cái thường rất thương yêu Ba Mẹ.
- Điều tôi không thích:
+ Nhiều gia đình ở VN hiện nay vì thương quá mà lại hóa ra hại, người lớn không dạy con cái kỹ năng sống mà có tư tưởng lo cho con cái cả đời, cung cấp mãi cá mà không cung cấp cần câu, cách câu cá, không gần gũi tâm sự với con vì mãi lo kiếm tiền và người nhỏ, người được cung cấp cá sinh ra tính ích kỷ, lười biếng, không biết sống vì người khác và cảm thấy thiếu tình thương.
+ 1 vài gia đình Việt Nam ở Úc khi dạy con, tâm sự với thì không kết hợp được văn hóa phương Tây với văn hóa Việt Nam, không hiểu đứa con có chính kiến riêng, đứa con rơi vào trạng thái ở giữa mà không thể giải thích Ba Mẹ vì sợ bất hiếu.
II. Thích danh tiếng, đánh giá con người qua ngành nghề, bằng cấp, sợ bị mất mặt.
- Người lớn gặp nhau thì có những chuẩn nhất định khi đánh giá về con người
+ đánh giá thành công thường gắn liền với bằng cấp, địa vị XH, xe cộ, nhà cao cửa lớn
+ trong câu chuyện thường nói về con cái, học ngành nào ( muốn con cái trở thành giáo sư, kỹ sư, luật sư, bác sĩ, những ngành nghề kiếm nhiều tiền, được XH trọng dụng, Master, Ph.D…), không muốn con cái trở thành công nhân, nghề gì mà chúng thích thấy phù hợp.
- Rất sợ mất mặt, mất thể diện nên nếu có người nhà ra ngoài làm chuyện gì khác XH thì cản trở, sợ bị kiện cáo, sợ gia đình mất mặt.
III. Có cái nhìn ngầm không thiện cảm về người vùng miền khác, nước khác
- Người Việt ở VN hay Úc: mỗi vùng miền đều có suy nghĩ ngầm không thiện cảm về người có giọng nói từ vùng miền khác, có thành kiến ít nhiều, thường chỉ có thiện cảm với người đồng hương, cùng giọng nói, vùng miền.
- Sinh viên ở Việt Nam khi sang Úc học: Cuộc sống học tập, mưu sinh ở Úc giúp họ trưởng thành hơn, có kỹ năng sống, giúp đỡ người cùng cảnh ngộ, và số tiền bỏ ra để đi du học ko phải nhỏ, bộ phận đông đảo du học sinh tự túc không phải ai cũng có sẵn tiền đi học , có người phải vay ngân hàng, phải mượn người thân, phải thế chấp nhà, Ba Mẹ họ đã làm tất cả vì tương lai họ, nếu ở nhà, không dùng số tiền đó đi du học thì khoản tiền đó phải nói là rất nhiều để gia đình thoải mái hơn. Họ cũng cảm thấy cô đơn, lạc lõng, bị cú sốc văn hóa, rào cản ngoại ngữ, buồn nhớ nhà. Đối với cộng đồng người Việt ở Úc, nếu không phải là người thân thì giữ khoảng cách nhất định, sợ và không biết làm sao giải thích vì người Việt Nam ở Úc vẫn còn thành kiến nhiều về những gì xảy ra trước năm 1975. Đi du học tự túc hay học bổng đều bị nói là học dở, con ông cháu cha mới đi học. Trong cộng đồng sinh viên Việt Nam luôn động viên nhau và khoảng cách giữa sinh viên Việt Nam sang Úc và con cháu người Việt ở Úc ngày càng xa.
- Người thế hệ thứ 2 ở Úc ( sinh ra ở VN từ nhỏ qua Úc hoặc sinh ra ở Úc 7X, 8X) và thế hệ thứ 3 ( sinh ra ở Úc) : do Ba Mẹ kể chuyện quá khứ nên không có thiện cảm với người Việt Nam từ Việt Nam sang hoặc coi Việt Nam chỉ là điểm du lịch. Có những người chỉ về Việt Nam du lịch, quen bạn gái, bạn trai người nước khác, hoặc quen phải do Ba Mẹ, gia đình mai mối cho chắc ăn, quen người ở Việt Nam thì Ba Mẹ không cho sống ở Việt Nam.
IV. Không có tính cộng đồng, dân tộc cao, ỷ mạnh hiếp yếu
1. Điểm giống nhau ở người Việt 2 nơi: tư tưởng hướng ngoại, vọng ngoại cái gì làm từ Tây, Nhật đều cho là tốt, nể Tây và sợ người Trung Quốc. Khi cạnh tranh ( thương trường và tình trường) không biết nêu điểm mạnh của mình, học hỏi điểm mạnh của đối thủ mà nhấn mạnh vào điểm yếu của đối thủ, giảm giá ( thương trường), nổ về mình ( tình trường), dùng chiêu thức hạ gục đối thủ để mình nổi bật lên. Thấy cái gì rẻ là mua chứ không ủng hộ nhau để cùng nhau phát triển. Ví dụ: ở Việt Nam thấy đồ Trung Quốc rẻ cũng mua, không có luật copyright nên toàn bắt chước, phá giá vì lợi nhuận cho riêng mình; ở Úc: làm và mua băng đĩa lậu, không ủng hộ băng đĩa gốc...
* Người Úc Tây: họ chạy xe Holden sản xuất tại Úc để ủng hộ nước Úc; giá hàng hóa làm tại Úc thì làm chất lượng, đúng yêu cầu sức khỏe, bán giá cao; đánh thuế cao hàng nước ngoài cùng loại; cấm nhập khẩu trái cây tươi từ nước ngoài; rừng bao la nhưng luật trong nước và luật hải quan về nhập khẩu gỗ, thuốc, động vật rất nghiêm khắc, cấm khai thác ( để bảo vệ môi trường và sức khỏe con người).
2. Khác nhau:
+ Ở Việt Nam: mọi thứ đều “ đấu tranh” mà có, muốn vượt lên thì phải cạnh tranh với người khác, qui luật nhân quả hiển hiện trước mắt ( hôm nay mình “hạ” người khác, ngày mai người khác nữa “hạ” mình). Ai làm gì cũng ở thế thủ, không có tính chia sẻ với mọi người, ai làm gì khác với suy nghĩ nhiều người là bị 1 đám người đè bẹp, cho nên ai làm gì cũng chỉ muốn lo cho bản thân, gia đình mình tốt nhất, sợ người khác hơn và có tâm lý sợ bị đè bẹp... và cuối cùng co mình lại theo chủ nghĩa gia đình
+ Ở Úc: đi đâu cũng thấy người Việt nhưng có tính chất riêng lẻ, cá nhân chứ ko thành 1 mối, thành 1 vòng tròn khép kín đồng tâm như người Hoa đã và đang làm, mọi chuyện làm ăn kinh doanh đều thua người TQ và có đối thủ người Việt là hết tình, hết nghĩa vì những chuyện cạnh tranh, giảm giá...
V. Dễ tin và mau quên
- Điều tôi thích : đa số người Việt ( nhất là phụ nữ) sống tình cảm, thật thà, dễ thuyết phục, có tấm lòng bao dung, tha thứ, vì sợ luật nhân quả hay tâm hiền nên sau khi bị “hại” thì rúc vào vỏ ốc riêng cho yên chuyện, không có ý định trả thù. Người phụ nữ Việt thấy ai đau khổ là không chịu được, có khi nghi ngờ bị lừa nhưng thấy người ta năn nỉ quá, lại cảm động và giúp, cho.
- Điều tôi không thích:
+ Cũng vì sợ quê, nghĩ là hỏi người khác thì quê nên không đến đúng người, đúng chỗ hỏi thẳng mà toàn nghe đồn, nghe lén và thông tin có được không chính xác.
+ Những gì báo chí ở nơi họ viết thì họ đều tin, ít tìm hiểu thông tin đa chiều để lý giải. Hễ nghe thấy ai có bằng cấp, giáo sư, học hàm học vị nói là nghe liền, tin liền mà không tìm hiểu thêm, không cần quan tâm họ nghiên cứu lĩnh vực gì, có bằng chứng không...
+ Ít nhiều người Việt có tư tưởng sợ bùa ngãi, thánh thần nên khi có việc gì xấu xảy ra, tự che dấu người xung quanh bằng cách nói bị bỏ bùa, ngãi hoặc bị thánh, thần trả báo, không cúng kiến thần thánh đến nơi đến chốn ...
+ Người Việt vì dễ tin nên hay chơi hụi hè và cuối cùng mất trắng vì chủ hụi bỏ trốn, đau đớn ( vì báo cảnh sát thì không được gì và im lặng vì sợ người xung quanh biết thì mình quê, mang tiếng “già mà dại”...)
+ Có những chuyện, làm ăn kinh doanh mà người bán do dẻo mồm miệng, đánh vào đòn tâm lý thuyết phục được người Việt chứ bản thân người kinh doanh mặt hàng đó không chứng minh được trên con người họ, không nói và làm đi đôi với nhau. Ví dụ: dân gian hay có câu “ cha dạy học, con đốt sách”, người cha thì dạy học, đảm bảo cho con cái người khác thi đậu ( không đậu không tính tiền) còn con cái trong nhà học dở, rớt lên rớt xuống. Người bán mỹ phẩm thì da không đẹp, không biết trang điểm nhưng giải thích bởi vì, này kia… rồi người Việt cũng mua sản phẩm và khi xài không được thì im lặng ( lại sợ người khác nói “khờ", mất mặt...)
+ Những gì người thân mua, giới thiệu thì tin và mua liền mà không biết có thích hợp với mình không
+ Có tâm lý mau quên nên những người có tính ác, trục lợi người khác sau 1 thời gian lại tiếp tục dụ, rồi lại tin, rồi lại mắc lừa. Những người vi phạm trong ngành nghề của họ rồi chuyển đi nơi khác thì tái phạm vì người Việt mau quên và không dứt khoát.
B. Sự khác nhau giữa người Việt và người Trung Quốc qua lăng kính riêng của tôi
Tôi học ở Úc 2 năm thì 1 năm đầu tiên thuê và ở chung nhà với sv người Trung Quốc ( TQ) và tôi sống được, có tình cảm với họ, tôi đối xử với họ thế nào thì họ đối xử với tôi như thế. Tôi học được nhiều từ họ, cùng giúp đỡ và chia sẻ niềm vui, nỗi buồn hằng ngày. Hồi trước ở VN, tôi cũng học chung lớp và biết người Hoa, bạn người Hoa ít nhiều nhưng chưa sống với họ chưa hiểu được họ nghĩ gì, làm gì để làm nên xã hội Hoa vững mạnh ở khắp nơi ( ở Việt Nam có 1 cộng đồng người Hoa lớn mạnh ở quận 5, thành phố Hồ Chí Minh). Đến khi qua Úc, ở chung nhà, đi chợ chung, 1 mình tôi là người Việt, mới biết và mới hiểu đôi chút về người TQ. Xin chia sẻ những ý kiến cá nhân qua những gì quan sát được trong thời gian tôi học và hòa mình vào môi trường xung quanh ở Úc để biết chút ít về người TQ.
Phụ nữ và đàn ông Trung Quốc làm nên sự vững mạnh của cộng đồng người TQ dù ở bất cứ nơi đâu. Người TQ lấy ai đi nữa thì họ vẫn giữ vững bản ngã ( identity) của mình, phụ nữ TQ hay đàn ông TQ lấy chồng nước khác thì con họ vẫn học nói và viết tiếng TQ bài bản đàng hoàng, trường dạy tiếng TQ khắp mọi nơi. Tôi học tiếng Anh ở Úc để về Việt Nam dạy tiếng Anh, trong khi bạn TQ cùng lớp tôi nói là học tiếng Anh để hiểu văn hóa, cách dạy ở Úc hơn và để ra trường dạy tiếng Hoa ở Úc. Họ đã làm chuyện này lâu rồi. Dù ở bất cứ nơi đâu, người Hoa gặp nhau từ nhỏ đến già đều nói tiếng Hoa. Hiểu ngôn ngữ thì mới dễ nói chuyện với nhau được, chia sẻ với nhau nhiều thứ được.
- Tôi đi tham quan, quan sát 1 trường tiểu học ở 1 vùng ( suburb) đa số học sinh trong trường gốc Hy Lạp ( Greek). Tất cả đều giao tiếp bằng tiếng Anh nhưng khi con nhỏ bạn TQ nhận ra mấy bé TQ, mấy bé đó nói tiếng TQ hỏi thăm cô bạn rất tự nhiên.
- Một cặp vợ chồng TQ đứng chờ xe điện (tram), họ lầm bầm chuyện gì đó, lát sau có người sinh viên TQ giải thích cho tôi hiểu là họ tưởng tôi là người TQ nên đánh giá tôi là xấu, gặp người TQ mà không chào. Người TQ từ nhỏ đến lớn bao thế hệ trên thế giới đều nói rành tiếng TQ. Còn người Việt mình có người gặp người Việt mà còn không nói tiếng Việt vì nhiều lý do ( vì không được học tiếng Việt bài bản, vì học tiếng Việt mà không thực hành, vì nghĩ tiếng Anh họ hơn người khác, vì sợ người khác nói xấu họ khi biết họ là người Việt, vì sợ người khác đánh giá thấp họ, vì lịch sự trong môi trường quốc tế ai cũng giao tiếp bằng tiếng Anh để người khác ko nghĩ họ nói xấu, vì 1 vài người, nhóm người Việt nào đó làm họ có cảm giác là người Việt xấu nên sợ xấu lây...) Những cái "vì" trong đó làm người Việt càng xa nhau và làm gì cũng cá nhân, riêng lẻ, phòng thủ nhau tuyệt đối. Còn người TQ thì cứ 2 người gặp nhau là nói tiếng của họ dù ở môi trường nào. Trong lớp tôi ở Úc toàn giáo viên tiếng Anh mà cứ 2 người TQ ngồi kế nhau là giáo sư luôn nhắc " Xin vui lòng nói tiếng Anh" ( English, please).
- Tôi đi ngoài đường, mua sắm… dân Úc Tây mà ít tiếp xúc với người Việt gặp người Việt toàn tưởng là người TQ , mấy người lớn người TQ hỏi bằng tiếng TQ vì tưởng tôi là người TQ , tôi lắc đầu bảo là người Việt thì họ đi tìm người TQ khác để hỏi, vì họ không biết nói tiếng Anh nhưng người TQ nào gặp tình cờ trên đường thì sẽ giúp họ ngay. Còn đối với giới trẻ, mấy đứa share chung nhà với tôi không biết từ tiếng Anh đó đọc, viết làm sao thì tìm đủ mọi cách để hỏi bạn nước khác, hỏi tôi, còn người Việt mình ngại hỏi hoặc là hỏi người Việt quen vì sợ quê. Hỏi bạn người TQ thì được giúp liền vì mình giúp họ là họ học lóm từ mình hoặc biết là mình sẽ giúp lại; hỏi người Việt thì chưa gì đã nghe 1 câu " làm cái đó tôi được gì không ?" ( Will I get something ? What about me ? ), giải thích vòng vèo, với bạn tốt, nhiệt tình thì được giúp ngay. Chính tâm lý cứ sợ người khác hơn mình và làm gì cũng có lợi trước mắt mới làm à SV Việt nói riêng và người Việt nói chung không hiểu nhau, tránh nhau và nói xấu sau lưng nhau nhiều và vì người Việt ngại giải thích hay sao đó. Ai cũng biết câu "lời nói ko mất tiền mua" nhưng chưa áp dụng được câu đó trong đời sống hằng ngày, giữa người Việt với nhau.
- Mấy đứa TQ ở chung nhà học cái gì cũng có sách vở chuyên ngành bằng chữ TQ chứ không phải chỉ sách chữ tiếng Anh. Vì thế họ học mà không sợ về ngôn ngữ, cứ người học giỏi thì truyền cho người kém hơn bằng tiếng TQ. Tôi tình cờ có quen 1 ông Úc Tây gốc người Anh trên xe lửa về nhà . Tôi thấy ông ấy cầm cuốn tập học, hỏi ra thì biết là ông ta đi học môn Sử ở khoa Khoa học xã hội và nhân văn ( Social Science and Humanities) cùng trường với tôi. Ông ấy kể đã từng đi dạy bậc tiểu học, cấp 2, trường dạy nghề, trung tâm ngoại ngữ (Primary, secondary, TAFE, Language centre) ở trường đại học RMIT Uni mà chuyển qua học Sử vì muốn tìm hiểu tâm lý con người qua lịch sử. Ông ấy nói người TQ chuyện gì cũng chia sẻ và tính cộng đồng rất cao nhất thế giới. Ông ấy từng dạy 1 lớp tiếng Anh nhiều người TQ, trong lớp chỉ có 1 cô gái TQ nói được, cuối buổi học ổng hỏi " Còn ai hỏi gì không ?" Mấy sinh viên TQ còn lại im thinh thích và ông ta biết họ không hiểu nên mới không hỏi. Vậy mà hôm sau , nhóm SV TQ đó vô lớp là đặt câu hỏi tới tấp cho ổng, ổng thấy lạ lắm. Sau thì ổng hiểu ra là cô gái TQ đó hiểu gì, sau buổi học truyền đạt lại hết cho nhóm bạn TQ đó, giúp họ và thế là cả nhóm cùng biết hết và đặt câu hỏi. Còn người Việt mình thì khác, người giỏi hơn không làm như cô gái đó vì nghĩ nếu nói ra thì sợ người kia hơn, nếu nói ra người kia không tiếp nhận mà còn nói mình dạy đời nó ... Vậy là người Việt giỏi mà giỏi đơn lẻ và hay tự hào về chính mình, còn người TQ thì cả nhóm, cả hội cùng giỏi và họ tự hào về xã hội vững mạnh của họ.
- Chinatown ở Úc là khu sầm uất nhất giữa trung tâm Melbourne, trung tâm Sydney. Vô đó, toàn nghe người TQ nói chuyện tiếng TQ với nhau, đồ ăn TQ, cái gì cũng made in China. Người TQ lại kết hợp với Malaysia, Singapore, Hàn Quốc trong Chinatown, thức ăn gì cũng thấy và người TQ nhập lại thành ra thành thức ăn TQ. Món ăn Dimsum phong phú là vậy, lúc nào cũng khách nườm nượp, còn người Việt mình thì chỉ chuyên về 1 vài món, thành ra khách ít mà cũng không nhiều người biết đến vì vô tiệm TQ có nhiều lựa chọn hơn, người Việt lại chưa tiếp thị quán người Việt cho người các nước khác mà lại thấy người Việt nào cũng ăn dimsum, còn khen ngon và giới thiệu cho nhau. Nhà hàng TQ tuyển người TQ là chính vì ông chủ TQ chỉ nói tiếng TQ với người làm, nói gì, muốn gì người làm đều hiểu và làm đúng lệnh, người làm thì nói tiếng TQ và tiếng Anh với khách và nhận tiền. Nhà hàng Việt tuyển người khắp nơi, tuyển cả người TQ phòng hờ có khách nói tiếng TQ. Nếu chủ nhà hàng Việt không hiểu được thì con cháu trong nhà giúp dịch tiếp. Con cháu có khi không hiểu được hết ý hoặc bận thì coi như chủ mất khách hôm đó.
- Tiệm TQ bán đủ thức ăn các nước và người TQ luôn vào tiệm TQ mua, nói tiếng TQ. Tiệm Việt thì người TQ không vô nhưng người Việt thì lại vô shop TQ mua vì hàng hóa đa dạng, nhiều mẫu mã và vì người TQ cũng biết tiếng Việt đủ giao tiếp với người Việt nữa. Người TQ mở tiệm thì chỉ cho người TQ khác mở kế bên, rồi hình thành 1 cái chợ TQ, không ai phá giá, ai thích tiệm nào thì vào tiệm đó mua. Khi có sự giống nhau vậy thì người TQ phát triển kỹ năng ăn nói, thuyết phục khách hàng để giữ khách hàng, thành ra cả chợ TQ ai cũng làm vừa lòng khác. Người Việt cũng khéo léo, cũng cởi mở, nhưng người Việt sợ nhất mở tiệm có người Việt học theo, mở tiệm kế bên và câu khách hàng bằng cách phá giá. Vậy là chủ tiệm người Việt ko ưa nhau mà giá hàng lại còn xuống. Chưa kể là có tâm lý nói xấu nhau vì ghét mà khách hàng là người thứ ba nghe được, hôm nay đi tiệm A nghe nói xấu tiệm B, ngày mai đi tiệm B nghe nói xấu tiệm A, họ sẽ nghĩ không tin tiệm nào . Shop Việt tự làm thị trường mình mất khách, xuống giá, mất thị trường.
- Trong nhà hàng Úc bao giờ cũng có người TQ làm việc, shop người ta thuê người TQ kinh nghiệm, người TQ lớn tuổi làm mọi nơi, mọi ngành nghề và họ chịu khó nói tiếng Anh, không ngại sai, không sợ quê. Khi giao tiếp bằng tiếng Anh, so với tiếng Việt mẫu tự abc, thì người TQ gặp trở ngại hơn trong chữ viết nhưng về nói thì TQ hơn hẳn người Việt. Tiếng Việt và tiếng TQ đều là tone language nhưng tiếng Việt đơn âm tiết ( từ nào cũng 1 vần), tiếng Tàu đa âm tiết ( multi-syllable) nên người TQ nói tiếng Anh cũng dễ dàng hơn, họ lại là chịu khó nói, giao tiếp, ko sợ quê khi phát âm sai, sai ngữ pháp... Người TQ rất chịu khó và giữ chữ tín. Làm nghề giàu lên bằng nghề đó thì cũng giữ vững suốt đời, ông bà chủ nhà tôi thuê giàu vậy chứ đến nhà vẫn lau kỹ từng chỗ dơ và dặn dò mấy đứa giữ nhà. Vì họ nói nhỏ nhẹ nên mấy đứa trong nhà tôi đều share tiếp công việc. Tôi rất cảm động khi chứng kiến cảnh XH TQ gắn bó nhau và tôn trọng người lớn - Mấy đứa sinh viênTQ giữ liên lạc với nhà, Ba Mẹ họ, nhưng không hỏi những chuyện như nấu ăn, thức uống, đi lại hằng ngày nhưng chuyện tình cảm, gia đình họ biết hết, chuyện gì xảy ra cũng hỏi tư vấn người lớn hết. Với lại gia đình họ cũng an tâm là tập thể người TQ luôn giúp nhau mọi lúc, mọi nơi nếu hỏi. Lúc mới qua, không đứa sv TQ nào cả nam lẫn nữ biết nấu ăn hết, đến luộc bắp cũng không biết nhưng ở chung nhà với nhau thì hướng dẫn nhau, cùng nhau lớn lên và không sợ quê, mất mặt khi hỏi bạn nước khác. Hai đứa con trai nhà giàu mà hỏi tôi những câu mà con trai VN ko bao giờ hỏi/ ngại hỏi : bỏ cái chén này vô microwave có bể không ? Luộc trứng thì bao lâu mới chin ? Chặt thịt chặt chiều nào ? Giặt đồ bỏ nhiêu xà bông có đủ không ? Hỏi thì tôi chỉ chứ có gì đâu. Mấy đứa con gái mới qua không biết gì cũng không ngần ngại hỏi mấy đứa con trai chỉ, mấy đứa con trai còn dẫn đi chợ, chỉ cách nấu nướng, xong rồi mấy lần khác thấy cả nam và nữ nấu chung với nhau, ăn vui vẻ. Còn SV Việt mà thấy con gái không biết nấu ăn chắc lắc đầu, nói xấu với bạn khác hoặc nghĩ thầm trong bụng " gì mà hư, lớn rồi mà Ba Mẹ ko dạy...", con trai không biết nấu ăn thì cũng ngại hỏi con gái vì sợ con gái nói gì đó mất mặt. Bạn gái TQ không cùng quan điểm chuyện gì đó thì chửi nhau ầm đùng hôm đó, hôm sau hết giận, lại vui vẻ như xưa và không nói xấu nhau với người nước khác. Con trai TQ lúc đó làm trung gian hòa giải và nói với tôi là " đó là chuyện nhỏ, cãi nhau vậy vì hiểu lầm". Còn bạn gái VN mà chửi nhau như vậy có khi để bụng thù nhau luôn kể từ đó, hoặc bằng mặt không bằng lòng, hoặc 1 người dọn ra để tránh phiền phức. Con trai Việt lúc đó 1 là hòa giải nhưng trong lòng sợ các cô, 2 là bỏ đi vì nghĩ là chuyện nhỏ. Sau đó chưa kể là còn gặp người quen, bạn học thì nói xấu nhau làm người nào cũng đề phòng nhau.
- Sinh viên TQ kiếm việc làm và không nhận giá thấp, đi làm thì việc gì cũng coi là để kiếm tiền và làm cho tốt. Có đứa con trai đi xe BMW nhưng đến nhà tôi dọn phòng cho sinh viên nữ, đến đúng giờ, dọn xong thì đi, trả và nhận tiền vui vẻ, hợp tác. Còn SV Việt mình chưa hẳn bạn nam đi xe BMW mà đến dọn phòng cho SV nữ. Có trường hợp đi dọn phòng thì được nhưng gặp SV Việt thì về vì sợ quê hoặc sợ mất mặt. Cứ thế người Việt với sự tự ái và nỗi sợ người Việt đàm tếu làm ngại nhau mà còn mất việc.
Xét về con người, mỗi người đều có điểm tốt và điểm xấu, nhân vô thập toàn. Thấy điểm tốt, tiến bộ của người ta học hỏi, thấy điểm xấu của người ta thì tránh, đâu ai thấy vết xe đổ mà lại chạy vô. Nói rộng ra là từ những điều kể trên, tôi hy vọng người Việt mình sẽ chia sẻ, giúp đỡ nhau nhiều hơn nữa. Tính tập thể sẽ làm nên sức mạnh chứ không thể từng cá nhân, từng người mạnh, giỏi nhưng mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy thủ mà làm nên XH người Việt mạnh, văn minh và tiến bộ được.
Bạn bè, người thân, đồng nghiệp, gia đình tôi, những người xung quanh tôi ở Việt Nam có gốc gác từ Bắc chí Nam và đủ các dân tộc. Bạn bè chung trường, chung lớp, anh chị em share nhà, đồng nghiệp của tôi, những người tôi gặp ở Melbourne, Sydney cũng có gốc gác từ Bắc chí Nam và đủ các dân tộc. Sống hơn 30 năm đời người, tôi luôn nghĩ mình phải đi học tâm lý để hiểu được người Việt, tôi lờ mờ nhận ra cộng đồng người Việt ở đâu cũng có những nét giống nhau rất điển hình của người Việt:
- Chủ nghĩa gia đình, họ hàng
- Thích danh tiếng, đánh giá con người qua ngành nghề, bằng cấp, sợ bị mất mặt.
- Có suy nghĩ ngầm không thiện cảm về người vùng miền khác, trong nước, ngoài nước.
- Không có tính cộng đồng, dân tộc cao, ỷ mạnh hiếp yếu.
- Dễ tin và mau quên
I. Chủ nghĩa gia đình, họ hàng:
1. Kết hôn:
- Điều tôi thích: truyền thống văn hóa, đạo nghĩa giữ trọn, thờ cúng gia tiên, tôn giáo đúng đạo, khi đám cưới luôn có mặt gia đình hai họ chung vui với con trẻ.
- Điều tôi không thích: còn nặng tư tưởng về “môn đăng hộ đối”, tử vi tướng số, chính trị và con cháu khi cưới vợ lấy chồng là cưới cho cả gia đình, họ hàng; người nào cũng bàn ra bàn vô, có những cặp yêu nhau thật sự mà không đến được với nhau vì những quan điểm tương tự như thế này từ bậc đi trước. Cặp nào can đảm lắm, lấy nhau thì về tư tưởng không thông, khi có chuyện gì không hay xảy ra thì “tại anh, tại em hồi đó không nghe lời của Ba Mẹ”.
2. Kiếm tiền lo lắng cho gia đình:
- Điều tôi thích: yêu thương đùm bọc nhau, không xá gì bản thân, khi ai có hoạn nạn, khó khăn, có bao nhiêu cũng dốc hết ruột gan giúp.
- Điều tôi không thích: Người nào giỏi, có trách nhiệm thì sống vì gia đình, cưu mang người vô tư, ích kỷ suốt đời, họ không xá gì bản thân mình cả về vật chất lẫn tình cảm. Rồi mỗi gia đình đối xử với họ hàng thì phải lo bên nội, bên ngoại, bên này đều, bên kia không, vợ chồng hằn học nhau, con cái thì tủi thân mà không thể nói. Ở Việt Nam ai có tiền thì trợ giúp người không có việc, ở thành thị trợ giúp ở nông thôn, người Việt ở Úc thì trợ giúp họ hàng, người nhà trong nước.
3. Nuôi dạy con cái:
- Điều tôi thích : Ba Mẹ sống hết mình vì con cái, không muốn con cái khổ hơn thế hệ mình, con cái thường rất thương yêu Ba Mẹ.
- Điều tôi không thích:
+ Nhiều gia đình ở VN hiện nay vì thương quá mà lại hóa ra hại, người lớn không dạy con cái kỹ năng sống mà có tư tưởng lo cho con cái cả đời, cung cấp mãi cá mà không cung cấp cần câu, cách câu cá, không gần gũi tâm sự với con vì mãi lo kiếm tiền và người nhỏ, người được cung cấp cá sinh ra tính ích kỷ, lười biếng, không biết sống vì người khác và cảm thấy thiếu tình thương.
+ 1 vài gia đình Việt Nam ở Úc khi dạy con, tâm sự với thì không kết hợp được văn hóa phương Tây với văn hóa Việt Nam, không hiểu đứa con có chính kiến riêng, đứa con rơi vào trạng thái ở giữa mà không thể giải thích Ba Mẹ vì sợ bất hiếu.
II. Thích danh tiếng, đánh giá con người qua ngành nghề, bằng cấp, sợ bị mất mặt.
- Người lớn gặp nhau thì có những chuẩn nhất định khi đánh giá về con người
+ đánh giá thành công thường gắn liền với bằng cấp, địa vị XH, xe cộ, nhà cao cửa lớn
+ trong câu chuyện thường nói về con cái, học ngành nào ( muốn con cái trở thành giáo sư, kỹ sư, luật sư, bác sĩ, những ngành nghề kiếm nhiều tiền, được XH trọng dụng, Master, Ph.D…), không muốn con cái trở thành công nhân, nghề gì mà chúng thích thấy phù hợp.
- Rất sợ mất mặt, mất thể diện nên nếu có người nhà ra ngoài làm chuyện gì khác XH thì cản trở, sợ bị kiện cáo, sợ gia đình mất mặt.
III. Có cái nhìn ngầm không thiện cảm về người vùng miền khác, nước khác
- Người Việt ở VN hay Úc: mỗi vùng miền đều có suy nghĩ ngầm không thiện cảm về người có giọng nói từ vùng miền khác, có thành kiến ít nhiều, thường chỉ có thiện cảm với người đồng hương, cùng giọng nói, vùng miền.
- Sinh viên ở Việt Nam khi sang Úc học: Cuộc sống học tập, mưu sinh ở Úc giúp họ trưởng thành hơn, có kỹ năng sống, giúp đỡ người cùng cảnh ngộ, và số tiền bỏ ra để đi du học ko phải nhỏ, bộ phận đông đảo du học sinh tự túc không phải ai cũng có sẵn tiền đi học , có người phải vay ngân hàng, phải mượn người thân, phải thế chấp nhà, Ba Mẹ họ đã làm tất cả vì tương lai họ, nếu ở nhà, không dùng số tiền đó đi du học thì khoản tiền đó phải nói là rất nhiều để gia đình thoải mái hơn. Họ cũng cảm thấy cô đơn, lạc lõng, bị cú sốc văn hóa, rào cản ngoại ngữ, buồn nhớ nhà. Đối với cộng đồng người Việt ở Úc, nếu không phải là người thân thì giữ khoảng cách nhất định, sợ và không biết làm sao giải thích vì người Việt Nam ở Úc vẫn còn thành kiến nhiều về những gì xảy ra trước năm 1975. Đi du học tự túc hay học bổng đều bị nói là học dở, con ông cháu cha mới đi học. Trong cộng đồng sinh viên Việt Nam luôn động viên nhau và khoảng cách giữa sinh viên Việt Nam sang Úc và con cháu người Việt ở Úc ngày càng xa.
- Người thế hệ thứ 2 ở Úc ( sinh ra ở VN từ nhỏ qua Úc hoặc sinh ra ở Úc 7X, 8X) và thế hệ thứ 3 ( sinh ra ở Úc) : do Ba Mẹ kể chuyện quá khứ nên không có thiện cảm với người Việt Nam từ Việt Nam sang hoặc coi Việt Nam chỉ là điểm du lịch. Có những người chỉ về Việt Nam du lịch, quen bạn gái, bạn trai người nước khác, hoặc quen phải do Ba Mẹ, gia đình mai mối cho chắc ăn, quen người ở Việt Nam thì Ba Mẹ không cho sống ở Việt Nam.
IV. Không có tính cộng đồng, dân tộc cao, ỷ mạnh hiếp yếu
1. Điểm giống nhau ở người Việt 2 nơi: tư tưởng hướng ngoại, vọng ngoại cái gì làm từ Tây, Nhật đều cho là tốt, nể Tây và sợ người Trung Quốc. Khi cạnh tranh ( thương trường và tình trường) không biết nêu điểm mạnh của mình, học hỏi điểm mạnh của đối thủ mà nhấn mạnh vào điểm yếu của đối thủ, giảm giá ( thương trường), nổ về mình ( tình trường), dùng chiêu thức hạ gục đối thủ để mình nổi bật lên. Thấy cái gì rẻ là mua chứ không ủng hộ nhau để cùng nhau phát triển. Ví dụ: ở Việt Nam thấy đồ Trung Quốc rẻ cũng mua, không có luật copyright nên toàn bắt chước, phá giá vì lợi nhuận cho riêng mình; ở Úc: làm và mua băng đĩa lậu, không ủng hộ băng đĩa gốc...
* Người Úc Tây: họ chạy xe Holden sản xuất tại Úc để ủng hộ nước Úc; giá hàng hóa làm tại Úc thì làm chất lượng, đúng yêu cầu sức khỏe, bán giá cao; đánh thuế cao hàng nước ngoài cùng loại; cấm nhập khẩu trái cây tươi từ nước ngoài; rừng bao la nhưng luật trong nước và luật hải quan về nhập khẩu gỗ, thuốc, động vật rất nghiêm khắc, cấm khai thác ( để bảo vệ môi trường và sức khỏe con người).
2. Khác nhau:
+ Ở Việt Nam: mọi thứ đều “ đấu tranh” mà có, muốn vượt lên thì phải cạnh tranh với người khác, qui luật nhân quả hiển hiện trước mắt ( hôm nay mình “hạ” người khác, ngày mai người khác nữa “hạ” mình). Ai làm gì cũng ở thế thủ, không có tính chia sẻ với mọi người, ai làm gì khác với suy nghĩ nhiều người là bị 1 đám người đè bẹp, cho nên ai làm gì cũng chỉ muốn lo cho bản thân, gia đình mình tốt nhất, sợ người khác hơn và có tâm lý sợ bị đè bẹp... và cuối cùng co mình lại theo chủ nghĩa gia đình

+ Ở Úc: đi đâu cũng thấy người Việt nhưng có tính chất riêng lẻ, cá nhân chứ ko thành 1 mối, thành 1 vòng tròn khép kín đồng tâm như người Hoa đã và đang làm, mọi chuyện làm ăn kinh doanh đều thua người TQ và có đối thủ người Việt là hết tình, hết nghĩa vì những chuyện cạnh tranh, giảm giá...
V. Dễ tin và mau quên
- Điều tôi thích : đa số người Việt ( nhất là phụ nữ) sống tình cảm, thật thà, dễ thuyết phục, có tấm lòng bao dung, tha thứ, vì sợ luật nhân quả hay tâm hiền nên sau khi bị “hại” thì rúc vào vỏ ốc riêng cho yên chuyện, không có ý định trả thù. Người phụ nữ Việt thấy ai đau khổ là không chịu được, có khi nghi ngờ bị lừa nhưng thấy người ta năn nỉ quá, lại cảm động và giúp, cho.
- Điều tôi không thích:
+ Cũng vì sợ quê, nghĩ là hỏi người khác thì quê nên không đến đúng người, đúng chỗ hỏi thẳng mà toàn nghe đồn, nghe lén và thông tin có được không chính xác.
+ Những gì báo chí ở nơi họ viết thì họ đều tin, ít tìm hiểu thông tin đa chiều để lý giải. Hễ nghe thấy ai có bằng cấp, giáo sư, học hàm học vị nói là nghe liền, tin liền mà không tìm hiểu thêm, không cần quan tâm họ nghiên cứu lĩnh vực gì, có bằng chứng không...
+ Ít nhiều người Việt có tư tưởng sợ bùa ngãi, thánh thần nên khi có việc gì xấu xảy ra, tự che dấu người xung quanh bằng cách nói bị bỏ bùa, ngãi hoặc bị thánh, thần trả báo, không cúng kiến thần thánh đến nơi đến chốn ...
+ Người Việt vì dễ tin nên hay chơi hụi hè và cuối cùng mất trắng vì chủ hụi bỏ trốn, đau đớn ( vì báo cảnh sát thì không được gì và im lặng vì sợ người xung quanh biết thì mình quê, mang tiếng “già mà dại”...)
+ Có những chuyện, làm ăn kinh doanh mà người bán do dẻo mồm miệng, đánh vào đòn tâm lý thuyết phục được người Việt chứ bản thân người kinh doanh mặt hàng đó không chứng minh được trên con người họ, không nói và làm đi đôi với nhau. Ví dụ: dân gian hay có câu “ cha dạy học, con đốt sách”, người cha thì dạy học, đảm bảo cho con cái người khác thi đậu ( không đậu không tính tiền) còn con cái trong nhà học dở, rớt lên rớt xuống. Người bán mỹ phẩm thì da không đẹp, không biết trang điểm nhưng giải thích bởi vì, này kia… rồi người Việt cũng mua sản phẩm và khi xài không được thì im lặng ( lại sợ người khác nói “khờ", mất mặt...)
+ Những gì người thân mua, giới thiệu thì tin và mua liền mà không biết có thích hợp với mình không
+ Có tâm lý mau quên nên những người có tính ác, trục lợi người khác sau 1 thời gian lại tiếp tục dụ, rồi lại tin, rồi lại mắc lừa. Những người vi phạm trong ngành nghề của họ rồi chuyển đi nơi khác thì tái phạm vì người Việt mau quên và không dứt khoát.
B. Sự khác nhau giữa người Việt và người Trung Quốc qua lăng kính riêng của tôi
Tôi học ở Úc 2 năm thì 1 năm đầu tiên thuê và ở chung nhà với sv người Trung Quốc ( TQ) và tôi sống được, có tình cảm với họ, tôi đối xử với họ thế nào thì họ đối xử với tôi như thế. Tôi học được nhiều từ họ, cùng giúp đỡ và chia sẻ niềm vui, nỗi buồn hằng ngày. Hồi trước ở VN, tôi cũng học chung lớp và biết người Hoa, bạn người Hoa ít nhiều nhưng chưa sống với họ chưa hiểu được họ nghĩ gì, làm gì để làm nên xã hội Hoa vững mạnh ở khắp nơi ( ở Việt Nam có 1 cộng đồng người Hoa lớn mạnh ở quận 5, thành phố Hồ Chí Minh). Đến khi qua Úc, ở chung nhà, đi chợ chung, 1 mình tôi là người Việt, mới biết và mới hiểu đôi chút về người TQ. Xin chia sẻ những ý kiến cá nhân qua những gì quan sát được trong thời gian tôi học và hòa mình vào môi trường xung quanh ở Úc để biết chút ít về người TQ.
Phụ nữ và đàn ông Trung Quốc làm nên sự vững mạnh của cộng đồng người TQ dù ở bất cứ nơi đâu. Người TQ lấy ai đi nữa thì họ vẫn giữ vững bản ngã ( identity) của mình, phụ nữ TQ hay đàn ông TQ lấy chồng nước khác thì con họ vẫn học nói và viết tiếng TQ bài bản đàng hoàng, trường dạy tiếng TQ khắp mọi nơi. Tôi học tiếng Anh ở Úc để về Việt Nam dạy tiếng Anh, trong khi bạn TQ cùng lớp tôi nói là học tiếng Anh để hiểu văn hóa, cách dạy ở Úc hơn và để ra trường dạy tiếng Hoa ở Úc. Họ đã làm chuyện này lâu rồi. Dù ở bất cứ nơi đâu, người Hoa gặp nhau từ nhỏ đến già đều nói tiếng Hoa. Hiểu ngôn ngữ thì mới dễ nói chuyện với nhau được, chia sẻ với nhau nhiều thứ được.
- Tôi đi tham quan, quan sát 1 trường tiểu học ở 1 vùng ( suburb) đa số học sinh trong trường gốc Hy Lạp ( Greek). Tất cả đều giao tiếp bằng tiếng Anh nhưng khi con nhỏ bạn TQ nhận ra mấy bé TQ, mấy bé đó nói tiếng TQ hỏi thăm cô bạn rất tự nhiên.
- Một cặp vợ chồng TQ đứng chờ xe điện (tram), họ lầm bầm chuyện gì đó, lát sau có người sinh viên TQ giải thích cho tôi hiểu là họ tưởng tôi là người TQ nên đánh giá tôi là xấu, gặp người TQ mà không chào. Người TQ từ nhỏ đến lớn bao thế hệ trên thế giới đều nói rành tiếng TQ. Còn người Việt mình có người gặp người Việt mà còn không nói tiếng Việt vì nhiều lý do ( vì không được học tiếng Việt bài bản, vì học tiếng Việt mà không thực hành, vì nghĩ tiếng Anh họ hơn người khác, vì sợ người khác nói xấu họ khi biết họ là người Việt, vì sợ người khác đánh giá thấp họ, vì lịch sự trong môi trường quốc tế ai cũng giao tiếp bằng tiếng Anh để người khác ko nghĩ họ nói xấu, vì 1 vài người, nhóm người Việt nào đó làm họ có cảm giác là người Việt xấu nên sợ xấu lây...) Những cái "vì" trong đó làm người Việt càng xa nhau và làm gì cũng cá nhân, riêng lẻ, phòng thủ nhau tuyệt đối. Còn người TQ thì cứ 2 người gặp nhau là nói tiếng của họ dù ở môi trường nào. Trong lớp tôi ở Úc toàn giáo viên tiếng Anh mà cứ 2 người TQ ngồi kế nhau là giáo sư luôn nhắc " Xin vui lòng nói tiếng Anh" ( English, please).
- Tôi đi ngoài đường, mua sắm… dân Úc Tây mà ít tiếp xúc với người Việt gặp người Việt toàn tưởng là người TQ , mấy người lớn người TQ hỏi bằng tiếng TQ vì tưởng tôi là người TQ , tôi lắc đầu bảo là người Việt thì họ đi tìm người TQ khác để hỏi, vì họ không biết nói tiếng Anh nhưng người TQ nào gặp tình cờ trên đường thì sẽ giúp họ ngay. Còn đối với giới trẻ, mấy đứa share chung nhà với tôi không biết từ tiếng Anh đó đọc, viết làm sao thì tìm đủ mọi cách để hỏi bạn nước khác, hỏi tôi, còn người Việt mình ngại hỏi hoặc là hỏi người Việt quen vì sợ quê. Hỏi bạn người TQ thì được giúp liền vì mình giúp họ là họ học lóm từ mình hoặc biết là mình sẽ giúp lại; hỏi người Việt thì chưa gì đã nghe 1 câu " làm cái đó tôi được gì không ?" ( Will I get something ? What about me ? ), giải thích vòng vèo, với bạn tốt, nhiệt tình thì được giúp ngay. Chính tâm lý cứ sợ người khác hơn mình và làm gì cũng có lợi trước mắt mới làm à SV Việt nói riêng và người Việt nói chung không hiểu nhau, tránh nhau và nói xấu sau lưng nhau nhiều và vì người Việt ngại giải thích hay sao đó. Ai cũng biết câu "lời nói ko mất tiền mua" nhưng chưa áp dụng được câu đó trong đời sống hằng ngày, giữa người Việt với nhau.
- Mấy đứa TQ ở chung nhà học cái gì cũng có sách vở chuyên ngành bằng chữ TQ chứ không phải chỉ sách chữ tiếng Anh. Vì thế họ học mà không sợ về ngôn ngữ, cứ người học giỏi thì truyền cho người kém hơn bằng tiếng TQ. Tôi tình cờ có quen 1 ông Úc Tây gốc người Anh trên xe lửa về nhà . Tôi thấy ông ấy cầm cuốn tập học, hỏi ra thì biết là ông ta đi học môn Sử ở khoa Khoa học xã hội và nhân văn ( Social Science and Humanities) cùng trường với tôi. Ông ấy kể đã từng đi dạy bậc tiểu học, cấp 2, trường dạy nghề, trung tâm ngoại ngữ (Primary, secondary, TAFE, Language centre) ở trường đại học RMIT Uni mà chuyển qua học Sử vì muốn tìm hiểu tâm lý con người qua lịch sử. Ông ấy nói người TQ chuyện gì cũng chia sẻ và tính cộng đồng rất cao nhất thế giới. Ông ấy từng dạy 1 lớp tiếng Anh nhiều người TQ, trong lớp chỉ có 1 cô gái TQ nói được, cuối buổi học ổng hỏi " Còn ai hỏi gì không ?" Mấy sinh viên TQ còn lại im thinh thích và ông ta biết họ không hiểu nên mới không hỏi. Vậy mà hôm sau , nhóm SV TQ đó vô lớp là đặt câu hỏi tới tấp cho ổng, ổng thấy lạ lắm. Sau thì ổng hiểu ra là cô gái TQ đó hiểu gì, sau buổi học truyền đạt lại hết cho nhóm bạn TQ đó, giúp họ và thế là cả nhóm cùng biết hết và đặt câu hỏi. Còn người Việt mình thì khác, người giỏi hơn không làm như cô gái đó vì nghĩ nếu nói ra thì sợ người kia hơn, nếu nói ra người kia không tiếp nhận mà còn nói mình dạy đời nó ... Vậy là người Việt giỏi mà giỏi đơn lẻ và hay tự hào về chính mình, còn người TQ thì cả nhóm, cả hội cùng giỏi và họ tự hào về xã hội vững mạnh của họ.
- Chinatown ở Úc là khu sầm uất nhất giữa trung tâm Melbourne, trung tâm Sydney. Vô đó, toàn nghe người TQ nói chuyện tiếng TQ với nhau, đồ ăn TQ, cái gì cũng made in China. Người TQ lại kết hợp với Malaysia, Singapore, Hàn Quốc trong Chinatown, thức ăn gì cũng thấy và người TQ nhập lại thành ra thành thức ăn TQ. Món ăn Dimsum phong phú là vậy, lúc nào cũng khách nườm nượp, còn người Việt mình thì chỉ chuyên về 1 vài món, thành ra khách ít mà cũng không nhiều người biết đến vì vô tiệm TQ có nhiều lựa chọn hơn, người Việt lại chưa tiếp thị quán người Việt cho người các nước khác mà lại thấy người Việt nào cũng ăn dimsum, còn khen ngon và giới thiệu cho nhau. Nhà hàng TQ tuyển người TQ là chính vì ông chủ TQ chỉ nói tiếng TQ với người làm, nói gì, muốn gì người làm đều hiểu và làm đúng lệnh, người làm thì nói tiếng TQ và tiếng Anh với khách và nhận tiền. Nhà hàng Việt tuyển người khắp nơi, tuyển cả người TQ phòng hờ có khách nói tiếng TQ. Nếu chủ nhà hàng Việt không hiểu được thì con cháu trong nhà giúp dịch tiếp. Con cháu có khi không hiểu được hết ý hoặc bận thì coi như chủ mất khách hôm đó.
- Tiệm TQ bán đủ thức ăn các nước và người TQ luôn vào tiệm TQ mua, nói tiếng TQ. Tiệm Việt thì người TQ không vô nhưng người Việt thì lại vô shop TQ mua vì hàng hóa đa dạng, nhiều mẫu mã và vì người TQ cũng biết tiếng Việt đủ giao tiếp với người Việt nữa. Người TQ mở tiệm thì chỉ cho người TQ khác mở kế bên, rồi hình thành 1 cái chợ TQ, không ai phá giá, ai thích tiệm nào thì vào tiệm đó mua. Khi có sự giống nhau vậy thì người TQ phát triển kỹ năng ăn nói, thuyết phục khách hàng để giữ khách hàng, thành ra cả chợ TQ ai cũng làm vừa lòng khác. Người Việt cũng khéo léo, cũng cởi mở, nhưng người Việt sợ nhất mở tiệm có người Việt học theo, mở tiệm kế bên và câu khách hàng bằng cách phá giá. Vậy là chủ tiệm người Việt ko ưa nhau mà giá hàng lại còn xuống. Chưa kể là có tâm lý nói xấu nhau vì ghét mà khách hàng là người thứ ba nghe được, hôm nay đi tiệm A nghe nói xấu tiệm B, ngày mai đi tiệm B nghe nói xấu tiệm A, họ sẽ nghĩ không tin tiệm nào . Shop Việt tự làm thị trường mình mất khách, xuống giá, mất thị trường.
- Trong nhà hàng Úc bao giờ cũng có người TQ làm việc, shop người ta thuê người TQ kinh nghiệm, người TQ lớn tuổi làm mọi nơi, mọi ngành nghề và họ chịu khó nói tiếng Anh, không ngại sai, không sợ quê. Khi giao tiếp bằng tiếng Anh, so với tiếng Việt mẫu tự abc, thì người TQ gặp trở ngại hơn trong chữ viết nhưng về nói thì TQ hơn hẳn người Việt. Tiếng Việt và tiếng TQ đều là tone language nhưng tiếng Việt đơn âm tiết ( từ nào cũng 1 vần), tiếng Tàu đa âm tiết ( multi-syllable) nên người TQ nói tiếng Anh cũng dễ dàng hơn, họ lại là chịu khó nói, giao tiếp, ko sợ quê khi phát âm sai, sai ngữ pháp... Người TQ rất chịu khó và giữ chữ tín. Làm nghề giàu lên bằng nghề đó thì cũng giữ vững suốt đời, ông bà chủ nhà tôi thuê giàu vậy chứ đến nhà vẫn lau kỹ từng chỗ dơ và dặn dò mấy đứa giữ nhà. Vì họ nói nhỏ nhẹ nên mấy đứa trong nhà tôi đều share tiếp công việc. Tôi rất cảm động khi chứng kiến cảnh XH TQ gắn bó nhau và tôn trọng người lớn - Mấy đứa sinh viênTQ giữ liên lạc với nhà, Ba Mẹ họ, nhưng không hỏi những chuyện như nấu ăn, thức uống, đi lại hằng ngày nhưng chuyện tình cảm, gia đình họ biết hết, chuyện gì xảy ra cũng hỏi tư vấn người lớn hết. Với lại gia đình họ cũng an tâm là tập thể người TQ luôn giúp nhau mọi lúc, mọi nơi nếu hỏi. Lúc mới qua, không đứa sv TQ nào cả nam lẫn nữ biết nấu ăn hết, đến luộc bắp cũng không biết nhưng ở chung nhà với nhau thì hướng dẫn nhau, cùng nhau lớn lên và không sợ quê, mất mặt khi hỏi bạn nước khác. Hai đứa con trai nhà giàu mà hỏi tôi những câu mà con trai VN ko bao giờ hỏi/ ngại hỏi : bỏ cái chén này vô microwave có bể không ? Luộc trứng thì bao lâu mới chin ? Chặt thịt chặt chiều nào ? Giặt đồ bỏ nhiêu xà bông có đủ không ? Hỏi thì tôi chỉ chứ có gì đâu. Mấy đứa con gái mới qua không biết gì cũng không ngần ngại hỏi mấy đứa con trai chỉ, mấy đứa con trai còn dẫn đi chợ, chỉ cách nấu nướng, xong rồi mấy lần khác thấy cả nam và nữ nấu chung với nhau, ăn vui vẻ. Còn SV Việt mà thấy con gái không biết nấu ăn chắc lắc đầu, nói xấu với bạn khác hoặc nghĩ thầm trong bụng " gì mà hư, lớn rồi mà Ba Mẹ ko dạy...", con trai không biết nấu ăn thì cũng ngại hỏi con gái vì sợ con gái nói gì đó mất mặt. Bạn gái TQ không cùng quan điểm chuyện gì đó thì chửi nhau ầm đùng hôm đó, hôm sau hết giận, lại vui vẻ như xưa và không nói xấu nhau với người nước khác. Con trai TQ lúc đó làm trung gian hòa giải và nói với tôi là " đó là chuyện nhỏ, cãi nhau vậy vì hiểu lầm". Còn bạn gái VN mà chửi nhau như vậy có khi để bụng thù nhau luôn kể từ đó, hoặc bằng mặt không bằng lòng, hoặc 1 người dọn ra để tránh phiền phức. Con trai Việt lúc đó 1 là hòa giải nhưng trong lòng sợ các cô, 2 là bỏ đi vì nghĩ là chuyện nhỏ. Sau đó chưa kể là còn gặp người quen, bạn học thì nói xấu nhau làm người nào cũng đề phòng nhau.
- Sinh viên TQ kiếm việc làm và không nhận giá thấp, đi làm thì việc gì cũng coi là để kiếm tiền và làm cho tốt. Có đứa con trai đi xe BMW nhưng đến nhà tôi dọn phòng cho sinh viên nữ, đến đúng giờ, dọn xong thì đi, trả và nhận tiền vui vẻ, hợp tác. Còn SV Việt mình chưa hẳn bạn nam đi xe BMW mà đến dọn phòng cho SV nữ. Có trường hợp đi dọn phòng thì được nhưng gặp SV Việt thì về vì sợ quê hoặc sợ mất mặt. Cứ thế người Việt với sự tự ái và nỗi sợ người Việt đàm tếu làm ngại nhau mà còn mất việc.
Xét về con người, mỗi người đều có điểm tốt và điểm xấu, nhân vô thập toàn. Thấy điểm tốt, tiến bộ của người ta học hỏi, thấy điểm xấu của người ta thì tránh, đâu ai thấy vết xe đổ mà lại chạy vô. Nói rộng ra là từ những điều kể trên, tôi hy vọng người Việt mình sẽ chia sẻ, giúp đỡ nhau nhiều hơn nữa. Tính tập thể sẽ làm nên sức mạnh chứ không thể từng cá nhân, từng người mạnh, giỏi nhưng mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy thủ mà làm nên XH người Việt mạnh, văn minh và tiến bộ được.
Quan niệm ở Việt Nam và ở phương Tây về đám ma qua cái nhìn của người quan sát
* Giống nhau: khi người thân mất đều thương xót, dù ở xa mấy cũng quay về, quan niệm nghĩa tử là nghĩa tận. Có cáo phó trước nhà, nơi tổ chức tang lễ,1 người mất là cả xóm biết.
* Khác nhau:
1. Nơi tổ chức:
- Ở VN: đa số tổ chức ở nhà, số ít ở thành thị, có điều kiện tổ chức ở nhà tang lễ. Nhà nào cho thuê buôn bán thì có khi vì công ăn việc làm không thể ngưng trệ, đám ma thì cứ việc đám ma, người thuê nhà buôn bán thì cứ việc buôn bán. Người ngoài nhìn vào chẳng thấy đâu là tình người với nhau.
- ở phương Tây: đa số tổ chức ở nhà tang lễ, những người theo tôn giáo, văn hóa riêng có thể tổ chức ở nhà thờ, chùa, ở nhà, mọi việc lặng lẽ. Khi có đám ma thì chỗ đó dù là nhộn nhịp nhưng mọi người cũng giảm bớt ồn ào để không làm phiền, hoặc không thương tiếc nhưng trước mặt cũng tỏ ra là người lịch sự, vẻ mặt không biểu lộ cảm xúc, không buồn cũng không vui.
2. Khi tổ chức:
- Ở VN: coi ngày giờ, mọi việc đều tuân thủ theo thầy, ngày giờ phải làm y theo ý thầy để đúng ý nguyện người khuất, tốt đẹp người sống. Thầy bảo quàng quan tài ở đâu thì phải theo đúng ý đó. Cho nên có khi thầy nói đi ban đêm là phải đúng ban đêm, quàng mấy ngày là mấy ngày, người thân ở xa chưa về kịp cũng chỉ biết ra mộ thăm, tất cả vì ý thầy.
- Ở phương Tây: khi người thân đã về đủ, viếng thăm đủ, chủ nhà chọn ngày giờ, người thân, bạn bè cùng ra nghĩa trang cầu nguyện và chôn cấ hoặc hỏa táng.
3. Không khí đám tang:
- Ở VN: ồn ào, lặng lẽ tùy theo từng nhà, có thùng phúng điếu hay không tùy theo ý của người sống ( không có thì sợ không trang trải nỗi, có thì sợ mắc nợ người đời). Người lúc sống có thể chưa bao giờ được nghe nhạc sống nhưng khi mất thì được người nhà cho nghe, cả xóm được nghe, có khi đám ma mà nghe nhạc vui hơn đám cưới. Người hàng xóm làu bàu, phàn nàn vì cả đêm, hoặc mấy đêm không ngủ được. Người nhà rất mệt mỏi nhưng thức suốt đêm suốt sáng vì người thăm còn, chưa kể phải lo nấu cháo, pha trà để tiếp khách.
- Ở phương Tây: rất lặng lẽ, không nhạc, không kèn trống, không thùng phúng điếu, mọi việc hướng về người mất và cố an ủi người nhà của người đã mất. Nếu không phải thân quen nhau thì không ai ở lâu, cũng không bắt người nhà phải lo lắng cho mình, mỗi người giúp 1 tay.
4. Khách khứa viếng thăm:
- Ở VN: có khi không hề biết mặt người đã khuất nhưng vì mối quan hệ với người nhà về công việc, làm ăn, là sếp nên bằng mọi giá phải đến thăm, phải cho người có mối quan hệ thấy mặt. Ai là gia đình, bạn bè thật thì thành thật chia buồn, chạy giúp nhau, ai đến vì những lý do khác thường ngồi bao đồng, thăm hỏi nhau vì lâu nay bận quá không có dịp gặp mặt. Ăn mặc cũng tùy khi, người nào biết thì mặc đồ đen, kín đáo, còn người không biết thì có thể mặc bất cứ gì mà họ cho là được. Không có ít người không thăm viếng nhưng đến hỏi người mất bao nhiêu tuổi để mua vé số, số đề.
- Ở phương Tây: có khi không hề biết mặt người đã khuất nhưng vì là bạn của người thân và đã đem đến niềm vui, chia sẻ nỗi buồn với người thân nên đã lặng lẽ đến viếng. Mọi người ăn mặc lịch sự, kín đáo, mặc đồ màu đen. Ai cũng sợ phiền người nhà nên thăm viếng xong thì về, người nhà thì ngại làm phiền khách nên muốn gì cũng không dám nhờ. Mọi việc bàn tán ra ngoài khỏi đám tang, không để chủ nhà biết.
5. Đưa tiễn người ra nghĩa trang:
- Ở VN: kèn trống, thả giấy vàng tiền bạc đầy đường. Khi đến nơi, có người không đợi được vì công việc, vì sếp gọi, vì đến giờ đi làm… nên bỏ về giữa chừng. Có khi đến nơi, mọi thứ đã sẳn sàng nhưng vì nghe lời thầy nên chưa hạ huyệt, chưa thiêu, mọi người phải đợi chờ. Chỉ những người thân, người có lòng, người về hưu mới đợi đến khi mọi việc kết thúc và cùng về.
- Ở phương Tây: làm lễ đơn sơ, lịch sự, thành kính, có thể cũng có công việc, sếp gọi nhưng họ đã sắp xếp và có thể giải thích sau. Mọi người đến và ra về cùng một lúc với chủ nhà.
6. Nghĩa trang
- Ở VN: u ám, ai cũng có tâm lý sợ viếng nghĩa trang, con nít sợ ma, người giữ nghĩa trang rất cực khổ, không sợ ma vì đã quen rồi “ không làm gì ác thì không sợ”.
- Ở phương Tây: sạch sẽ, cỏ xanh, thoải mái, yên bình ( đúng nghĩa là Rest In Peace), nghĩa trang đủ dân tộc, tôn giáo, con nít không sợ đến nghĩa trang, người giữ nghĩa trang không cực khổ, rất vui và thoải mái




Hũ cốt ở vườn hoa đó, không có mộ, mả. Mỗi gia đình là chung 1 vòm như vậy, họ ( last name, surname giống nhau). Có vòm 3 hũ cốt, có vòm 4 hũ.


Bên hông ngôi nhà, bên trong là tiệm café á. Không phải theo vòm nữa mà là theo cặp vợ chồng, chết cũng có đôi lãng mạn hé.

Nhìn cảnh này mủi lòng . Họ cúi khẽ trước mộ người thân mà mình cảm động vì cảnh xung quanh và họ lặng lẽ

Cái xe này hồi xưa là toa xe lửa thường, người ta muốn giữ kỷ niệm và cho con cháu biết, mà train station Fawkner thì ở ngay nghĩa trang, ai thăm nghĩa trang là sẽ thấy ngay...
* Khác nhau:
1. Nơi tổ chức:
- Ở VN: đa số tổ chức ở nhà, số ít ở thành thị, có điều kiện tổ chức ở nhà tang lễ. Nhà nào cho thuê buôn bán thì có khi vì công ăn việc làm không thể ngưng trệ, đám ma thì cứ việc đám ma, người thuê nhà buôn bán thì cứ việc buôn bán. Người ngoài nhìn vào chẳng thấy đâu là tình người với nhau.
- ở phương Tây: đa số tổ chức ở nhà tang lễ, những người theo tôn giáo, văn hóa riêng có thể tổ chức ở nhà thờ, chùa, ở nhà, mọi việc lặng lẽ. Khi có đám ma thì chỗ đó dù là nhộn nhịp nhưng mọi người cũng giảm bớt ồn ào để không làm phiền, hoặc không thương tiếc nhưng trước mặt cũng tỏ ra là người lịch sự, vẻ mặt không biểu lộ cảm xúc, không buồn cũng không vui.
2. Khi tổ chức:
- Ở VN: coi ngày giờ, mọi việc đều tuân thủ theo thầy, ngày giờ phải làm y theo ý thầy để đúng ý nguyện người khuất, tốt đẹp người sống. Thầy bảo quàng quan tài ở đâu thì phải theo đúng ý đó. Cho nên có khi thầy nói đi ban đêm là phải đúng ban đêm, quàng mấy ngày là mấy ngày, người thân ở xa chưa về kịp cũng chỉ biết ra mộ thăm, tất cả vì ý thầy.
- Ở phương Tây: khi người thân đã về đủ, viếng thăm đủ, chủ nhà chọn ngày giờ, người thân, bạn bè cùng ra nghĩa trang cầu nguyện và chôn cấ hoặc hỏa táng.
3. Không khí đám tang:
- Ở VN: ồn ào, lặng lẽ tùy theo từng nhà, có thùng phúng điếu hay không tùy theo ý của người sống ( không có thì sợ không trang trải nỗi, có thì sợ mắc nợ người đời). Người lúc sống có thể chưa bao giờ được nghe nhạc sống nhưng khi mất thì được người nhà cho nghe, cả xóm được nghe, có khi đám ma mà nghe nhạc vui hơn đám cưới. Người hàng xóm làu bàu, phàn nàn vì cả đêm, hoặc mấy đêm không ngủ được. Người nhà rất mệt mỏi nhưng thức suốt đêm suốt sáng vì người thăm còn, chưa kể phải lo nấu cháo, pha trà để tiếp khách.
- Ở phương Tây: rất lặng lẽ, không nhạc, không kèn trống, không thùng phúng điếu, mọi việc hướng về người mất và cố an ủi người nhà của người đã mất. Nếu không phải thân quen nhau thì không ai ở lâu, cũng không bắt người nhà phải lo lắng cho mình, mỗi người giúp 1 tay.
4. Khách khứa viếng thăm:
- Ở VN: có khi không hề biết mặt người đã khuất nhưng vì mối quan hệ với người nhà về công việc, làm ăn, là sếp nên bằng mọi giá phải đến thăm, phải cho người có mối quan hệ thấy mặt. Ai là gia đình, bạn bè thật thì thành thật chia buồn, chạy giúp nhau, ai đến vì những lý do khác thường ngồi bao đồng, thăm hỏi nhau vì lâu nay bận quá không có dịp gặp mặt. Ăn mặc cũng tùy khi, người nào biết thì mặc đồ đen, kín đáo, còn người không biết thì có thể mặc bất cứ gì mà họ cho là được. Không có ít người không thăm viếng nhưng đến hỏi người mất bao nhiêu tuổi để mua vé số, số đề.
- Ở phương Tây: có khi không hề biết mặt người đã khuất nhưng vì là bạn của người thân và đã đem đến niềm vui, chia sẻ nỗi buồn với người thân nên đã lặng lẽ đến viếng. Mọi người ăn mặc lịch sự, kín đáo, mặc đồ màu đen. Ai cũng sợ phiền người nhà nên thăm viếng xong thì về, người nhà thì ngại làm phiền khách nên muốn gì cũng không dám nhờ. Mọi việc bàn tán ra ngoài khỏi đám tang, không để chủ nhà biết.
5. Đưa tiễn người ra nghĩa trang:
- Ở VN: kèn trống, thả giấy vàng tiền bạc đầy đường. Khi đến nơi, có người không đợi được vì công việc, vì sếp gọi, vì đến giờ đi làm… nên bỏ về giữa chừng. Có khi đến nơi, mọi thứ đã sẳn sàng nhưng vì nghe lời thầy nên chưa hạ huyệt, chưa thiêu, mọi người phải đợi chờ. Chỉ những người thân, người có lòng, người về hưu mới đợi đến khi mọi việc kết thúc và cùng về.
- Ở phương Tây: làm lễ đơn sơ, lịch sự, thành kính, có thể cũng có công việc, sếp gọi nhưng họ đã sắp xếp và có thể giải thích sau. Mọi người đến và ra về cùng một lúc với chủ nhà.
6. Nghĩa trang
- Ở VN: u ám, ai cũng có tâm lý sợ viếng nghĩa trang, con nít sợ ma, người giữ nghĩa trang rất cực khổ, không sợ ma vì đã quen rồi “ không làm gì ác thì không sợ”.
- Ở phương Tây: sạch sẽ, cỏ xanh, thoải mái, yên bình ( đúng nghĩa là Rest In Peace), nghĩa trang đủ dân tộc, tôn giáo, con nít không sợ đến nghĩa trang, người giữ nghĩa trang không cực khổ, rất vui và thoải mái




Hũ cốt ở vườn hoa đó, không có mộ, mả. Mỗi gia đình là chung 1 vòm như vậy, họ ( last name, surname giống nhau). Có vòm 3 hũ cốt, có vòm 4 hũ.


Bên hông ngôi nhà, bên trong là tiệm café á. Không phải theo vòm nữa mà là theo cặp vợ chồng, chết cũng có đôi lãng mạn hé.

Nhìn cảnh này mủi lòng . Họ cúi khẽ trước mộ người thân mà mình cảm động vì cảnh xung quanh và họ lặng lẽ

Cái xe này hồi xưa là toa xe lửa thường, người ta muốn giữ kỷ niệm và cho con cháu biết, mà train station Fawkner thì ở ngay nghĩa trang, ai thăm nghĩa trang là sẽ thấy ngay...

Quan niệm của bạn trẻ Việt Nam và phương Tây qua cái nhìn của người quan sát
Qua 1 thời gian quan sát, tôi thấy có những điều khác biệt về cách nghĩ của bạn trẻ ở Việt Nam và bạn trẻ ở phương Tây khi đi chơi, tìm hiểu nhau, đến với nhau và đám cưới
1. Đi chơi: Cách đánh dấu đường khi đến 1 vùng lạ dù có cùng ngôn ngữ hay khác ngôn ngữ:
- Bạn trẻ Việt sẽ nhớ đặc điểm để quay lại chỗ cũ bằng landmarks ( mốc đường) là những tòa nhà lớn, gần cái gì, nơi nào lớn và có thể dễ bị lạc đường ở nước ngoài vì landmarks có thể giống nhau và tương tự nhau.
- Bạn trẻ ở phương Tây sẽ nhớ tất cả đặc điểm để quay lại chỗ cũ bằng tên đường, xung quanh có cái gì lạ, phương hướng, landmarks... và không bị lạc đường dù ở bất cứ nơi đâu.
2. Tìm hiểu: Khi giới thiệu mình có người yêu thì câu hỏi đầu tiên:
- Bạn bè, người thân của bạn trẻ Việt sẽ thường hỏi: anh ấy/ cô ấy giàu không, con nhà ai, nhà ở đâu, đẹp trai/ gái hay xấu, muốn gặp mặt, muốn xem hình để coi hiền hay dữ, chân tướng...theo kinh nghiệm, tử vi, nhà đông anh chị em hay ít người ?
- Bạn bè, người thân xung quanh của bạn trẻ phương Tây sẽ hỏi: gặp anh/ cô ta ở đâu ? ( Where did you meet him/ her?). Có cảm thấy hạnh phúc với anh/ cô ta không ? ( Are you happy being with him/ her ?)
3. Khi bạn trẻ giới thiệu mình có người yêu với bạn bè và gia đình:
- Những quan điểm “môn đăng hộ đối”, tử vi từ gia đình, người thân ngăn cách đôi lứa bạn trẻ Việt Nam đến với nhau:
+ vật chất (giàu – nghèo, nhìn sang - nhìn hèn)
+ bề ngoài (đẹp – xấu, mập - ốm, cao - thấp )
+ học vấn (học cao – học thấp, không thể chấp nhận con gái học cao hơn con trai...)
+ nghề nghiệp (ví dụ: con gái bác sĩ – con trai công nhân, việc làm ổn định - người kia đang thất nghiệp... )
+ tuổi tác ( con trai không thể lấy vợ lớn tuổi hơn nhưng đàn ông có thể lấy phụ nữ nhỏ hơn mình 40 tuổi
+ thành phần xuất thân (quan chức- lọ lem hè phố, thành thị - nông thôn, gia đình ba mẹ đầy đủ - gia đình li dị, không mẹ, không cha )
+ tôn giáo khác nhau (vị hôn phối phải theo tôn giáo của mình, bỏ đạo của họ)
+ chính trị khác nhau ( sẽ khó khăn vì xét hoàn cảnh gia đình người kia 3 đời, mình sẽ không vào Đảng được, không thăng tiến được)
+ quá khứ của vị hôn phối ( cô kia trước làm gái nhà hàng thế nào cũng ngựa quen đường cũ, anh này hay đi beer ôm tại vì chưa có vợ, có sẽ đàng hoàng; cô kia 1 đời chồng thì không ổn, anh này mấy đời vợ vẫn không sao)
+ ngôn ngữ khác nhau, vùng miền khác nhau ( chỉ có con nói chuyện được với nó còn ba mẹ, người thân thì sao ? )
+ kị tuổi tác ( tuổi này kị, khắc nhau lấy về làm ăn không ngóc đầu nổi, tuổi rơi vào tứ hành xung, rước về là 1 trong 2 sẽ chết; tướng số sát phu, sát phụ, không lấy vợ tuổi dần…)
- Những điều người thân ngăn cách đôi lứa bạn trẻ phương Tây đến với nhau:
+ Không tôn trọng nhau, đánh nhau, chửi nhau
+ Không che chở nhau lúc hoạn nạn khó khăn
+ Yêu và quan hệ tình dục với 1 người khác
+ Không đem đến cho nhau hạnh phúc.
==> Vậy thử hỏi, bạn trẻ nơi nào đến với nhau vì chính con người họ chứ không phải vì những gì xung quanh họ.
4. Đám cưới diễn ra:
- Người Việt Nam: quan niệm hôn nhân chỉ có 1 lần trong đời nên đã làm thì làm cho đáng, cho nở mặt nở mày với gia đình, dòng họ, bạn bè, bá quan văn võ, không mời sợ bị trách, mời thì sợ đem đến cho họ gánh lo, không có tiền thì vay mượn, cưới xong không đủ thì cày cuốc lo trả tiền. Trước ngày cưới người thân, cô dâu chú rể tất bật lo chạy ngược chạy xuôi đặt bàn, đặt cỗ, chụp hình, cô dâu xơ xác, chú rể héo hon nhưng cũng ráng cười vì ngày vui hai họ và vì khóc là xui. Đám cưới đông đủ hay vắng ít còn tùy thuộc vào thời tiết ( mưa thì ở nhà) và mối quan hệ ( con sếp thì trời bão cũng đi). Lúc làm lễ mừng cô dâu chú rể thì người ăn, người uống, ít ai nhìn lên sân khấu ( hoặc có nhìn thì coi cô dâu chú rể đẹp hay xấu) vì đã chờ đợi thấm mệt và đám cưới nào cũng như đám cưới nào. Đêm tân hôn lo đếm tiền mừng quan khách, ghi ghi chép chép để sau này ai đi mình bao nhiêu thì mình đi lại họ cho đúng lễ, lo sợ có điều gì không phải bị quở trách, chú rể say bí tỉ, cô dâu nằm thổn thức
- Phương Tây: quan niệm hôn nhân là đem đến cho nhau hạnh phúc. Cô dâu chú rể là người hạnh phúc báo tin cho mọi người, đám cưới mời trước 1 tháng, cuối tuần vì ai cũng đi làm và để cho khách mời có thời gian sắp xếp. Trong thiệp cưới có ghi chú “RSVP” (Répondez S'il Vous Plaît = Please Reply) để biết số người đi và đặt bàn cho đúng, ai reply và confirm đi thì đó là 1 lời hứa, nắng mưa gì họ cũng đi. Ai cũng ăn mặc lịch sự và ai cũng muốn chia sẽ niềm vui của cô dâu, chú rể.Khi làm lễ, mọi người chú ý trân trọng giờ khắc thiêng liêng, dừng lại mọi việc riêng để cùng chia sẻ với cô dâu chú rể 1 cách chân thành nhất. Người thân dự lễ tuyên thệ có thể được phát 1 cuốn tuyên thệ để lắng nghe cùng cô dâu, chú rể theo các bước bài bản. Cô dâu chú rể lắng nghe 1 người làm chủ hôn hỏi, rồi tuyên thệ trước mặt mọi người ( ba mẹ, bạn bè ) là sẽ yêu nhau, tôn trọng nhau và thương nhau, chia sẻ những năm tháng phía trước cùng nhau … Quà tặng không nhất thiết là tiền, bạn bè cô dâu chú rể sẽ hỏi 2 người thích gì, muốn gì và có thể tặng, đặt, vouchers để cô dâu chú rể có thể sử dụng 1 cách thiết thực và theo ý mình. Trên bàn chỉ có hoa, quà tặng chứ không có thùng đựng bao thư, phong bì. Sau đám cưới, cô dâu chú rể có thể đi đâu tùy thích vì ngày đó là ngày của họ. Tất cả những người thân sẽ chuyển đồ về dùm họ.
1. Đi chơi: Cách đánh dấu đường khi đến 1 vùng lạ dù có cùng ngôn ngữ hay khác ngôn ngữ:
- Bạn trẻ Việt sẽ nhớ đặc điểm để quay lại chỗ cũ bằng landmarks ( mốc đường) là những tòa nhà lớn, gần cái gì, nơi nào lớn và có thể dễ bị lạc đường ở nước ngoài vì landmarks có thể giống nhau và tương tự nhau.
- Bạn trẻ ở phương Tây sẽ nhớ tất cả đặc điểm để quay lại chỗ cũ bằng tên đường, xung quanh có cái gì lạ, phương hướng, landmarks... và không bị lạc đường dù ở bất cứ nơi đâu.
2. Tìm hiểu: Khi giới thiệu mình có người yêu thì câu hỏi đầu tiên:
- Bạn bè, người thân của bạn trẻ Việt sẽ thường hỏi: anh ấy/ cô ấy giàu không, con nhà ai, nhà ở đâu, đẹp trai/ gái hay xấu, muốn gặp mặt, muốn xem hình để coi hiền hay dữ, chân tướng...theo kinh nghiệm, tử vi, nhà đông anh chị em hay ít người ?
- Bạn bè, người thân xung quanh của bạn trẻ phương Tây sẽ hỏi: gặp anh/ cô ta ở đâu ? ( Where did you meet him/ her?). Có cảm thấy hạnh phúc với anh/ cô ta không ? ( Are you happy being with him/ her ?)
3. Khi bạn trẻ giới thiệu mình có người yêu với bạn bè và gia đình:
- Những quan điểm “môn đăng hộ đối”, tử vi từ gia đình, người thân ngăn cách đôi lứa bạn trẻ Việt Nam đến với nhau:
+ vật chất (giàu – nghèo, nhìn sang - nhìn hèn)
+ bề ngoài (đẹp – xấu, mập - ốm, cao - thấp )
+ học vấn (học cao – học thấp, không thể chấp nhận con gái học cao hơn con trai...)
+ nghề nghiệp (ví dụ: con gái bác sĩ – con trai công nhân, việc làm ổn định - người kia đang thất nghiệp... )
+ tuổi tác ( con trai không thể lấy vợ lớn tuổi hơn nhưng đàn ông có thể lấy phụ nữ nhỏ hơn mình 40 tuổi

+ thành phần xuất thân (quan chức- lọ lem hè phố, thành thị - nông thôn, gia đình ba mẹ đầy đủ - gia đình li dị, không mẹ, không cha )
+ tôn giáo khác nhau (vị hôn phối phải theo tôn giáo của mình, bỏ đạo của họ)
+ chính trị khác nhau ( sẽ khó khăn vì xét hoàn cảnh gia đình người kia 3 đời, mình sẽ không vào Đảng được, không thăng tiến được)
+ quá khứ của vị hôn phối ( cô kia trước làm gái nhà hàng thế nào cũng ngựa quen đường cũ, anh này hay đi beer ôm tại vì chưa có vợ, có sẽ đàng hoàng; cô kia 1 đời chồng thì không ổn, anh này mấy đời vợ vẫn không sao)
+ ngôn ngữ khác nhau, vùng miền khác nhau ( chỉ có con nói chuyện được với nó còn ba mẹ, người thân thì sao ? )
+ kị tuổi tác ( tuổi này kị, khắc nhau lấy về làm ăn không ngóc đầu nổi, tuổi rơi vào tứ hành xung, rước về là 1 trong 2 sẽ chết; tướng số sát phu, sát phụ, không lấy vợ tuổi dần…)
- Những điều người thân ngăn cách đôi lứa bạn trẻ phương Tây đến với nhau:
+ Không tôn trọng nhau, đánh nhau, chửi nhau
+ Không che chở nhau lúc hoạn nạn khó khăn
+ Yêu và quan hệ tình dục với 1 người khác
+ Không đem đến cho nhau hạnh phúc.
==> Vậy thử hỏi, bạn trẻ nơi nào đến với nhau vì chính con người họ chứ không phải vì những gì xung quanh họ.
4. Đám cưới diễn ra:
- Người Việt Nam: quan niệm hôn nhân chỉ có 1 lần trong đời nên đã làm thì làm cho đáng, cho nở mặt nở mày với gia đình, dòng họ, bạn bè, bá quan văn võ, không mời sợ bị trách, mời thì sợ đem đến cho họ gánh lo, không có tiền thì vay mượn, cưới xong không đủ thì cày cuốc lo trả tiền. Trước ngày cưới người thân, cô dâu chú rể tất bật lo chạy ngược chạy xuôi đặt bàn, đặt cỗ, chụp hình, cô dâu xơ xác, chú rể héo hon nhưng cũng ráng cười vì ngày vui hai họ và vì khóc là xui. Đám cưới đông đủ hay vắng ít còn tùy thuộc vào thời tiết ( mưa thì ở nhà) và mối quan hệ ( con sếp thì trời bão cũng đi). Lúc làm lễ mừng cô dâu chú rể thì người ăn, người uống, ít ai nhìn lên sân khấu ( hoặc có nhìn thì coi cô dâu chú rể đẹp hay xấu) vì đã chờ đợi thấm mệt và đám cưới nào cũng như đám cưới nào. Đêm tân hôn lo đếm tiền mừng quan khách, ghi ghi chép chép để sau này ai đi mình bao nhiêu thì mình đi lại họ cho đúng lễ, lo sợ có điều gì không phải bị quở trách, chú rể say bí tỉ, cô dâu nằm thổn thức
- Phương Tây: quan niệm hôn nhân là đem đến cho nhau hạnh phúc. Cô dâu chú rể là người hạnh phúc báo tin cho mọi người, đám cưới mời trước 1 tháng, cuối tuần vì ai cũng đi làm và để cho khách mời có thời gian sắp xếp. Trong thiệp cưới có ghi chú “RSVP” (Répondez S'il Vous Plaît = Please Reply) để biết số người đi và đặt bàn cho đúng, ai reply và confirm đi thì đó là 1 lời hứa, nắng mưa gì họ cũng đi. Ai cũng ăn mặc lịch sự và ai cũng muốn chia sẽ niềm vui của cô dâu, chú rể.Khi làm lễ, mọi người chú ý trân trọng giờ khắc thiêng liêng, dừng lại mọi việc riêng để cùng chia sẻ với cô dâu chú rể 1 cách chân thành nhất. Người thân dự lễ tuyên thệ có thể được phát 1 cuốn tuyên thệ để lắng nghe cùng cô dâu, chú rể theo các bước bài bản. Cô dâu chú rể lắng nghe 1 người làm chủ hôn hỏi, rồi tuyên thệ trước mặt mọi người ( ba mẹ, bạn bè ) là sẽ yêu nhau, tôn trọng nhau và thương nhau, chia sẻ những năm tháng phía trước cùng nhau … Quà tặng không nhất thiết là tiền, bạn bè cô dâu chú rể sẽ hỏi 2 người thích gì, muốn gì và có thể tặng, đặt, vouchers để cô dâu chú rể có thể sử dụng 1 cách thiết thực và theo ý mình. Trên bàn chỉ có hoa, quà tặng chứ không có thùng đựng bao thư, phong bì. Sau đám cưới, cô dâu chú rể có thể đi đâu tùy thích vì ngày đó là ngày của họ. Tất cả những người thân sẽ chuyển đồ về dùm họ.
So sánh cách trẻ em (bậc tiểu học ) học, được dạy và suy nghĩ ở Việt Nam và ở phương Tây qua cái nhìn của người quan sát
Trong thời gian học TESOL ở La Trobe University, Melbourne, Úc, tôi may mắn được tham quan học hỏi ở 1 trường tiểu học và được làm homework tutor trong 1 chương trình tình nguyện giúp trẻ em ở 1 trường tiểu học khác ở Melbourne Úc. Khi nói chuyện với 1 vài bạn tình nguyện viên của Mỹ đến trường nơi tôi đang dạy ở Việt Nam, tôi nghe các bạn ấy nói Mỹ và Úc tương tự nhau. Sau đây tôi mạo muội viết những so sánh giống nhau và khác nhau về cách trẻ em (bậc tiểu học ) học, được dạy, suy nghĩ ở Việt Nam và ở phương Tây qua sự quan sát của cá nhân tôi
* Giống nhau:
- Trẻ em là 1 tờ giấy trắng, hồn nhiên, tinh nghịch, tò mò và cũng biết suy nghĩ, chịu nghe người lớn giải thích.
- Môi trường như thế nào thì trẻ con sẽ như thế đó, là mẫu sao y bản chánh của người lớn.
- Trẻ em phân biệt được ai xấu, ai tốt với mình.
- Trẻ em có những điều chỉ kể với Ba Mẹ, không kể với Thầy Cô và ngược lại.
* Khác nhau:
Cảm nhận đầu tiên của tôi: khi hỏi trẻ em ở Úc về trường học như thế nào thì chúng thao thao kể cho nghe, mình không biết cách ngưng câu chuyện. Những người bạn Úc của tôi (người gốc Việt cũng như Úc Tây) đã dẫn tôi đến trường học cấp 1 của họ giới thiệu vì đó là là nơi họ cảm thấy vui , có nhiều kỷ niệm và nhớ về Thầy Cô của họ ( có khi không nhớ tên), dù bao năm rồi. Còn hỏi trẻ em ở Việt Nam về việc học thì bé nào cũng ngán và lắc đầu "Không biết chừng nào mới hết học ! Học hoài ! Con chỉ muốn đi chơi ..."
I. Luật pháp, môi trường XH nói chung:
1. Ở Việt Nam: trừ ba mẹ, người thân của trẻ con, những người thương yêu con trẻ và những phụ huynh tốt bụng, tử tế ra, trẻ con chỉ được ưu ái số 1 trên giấy tờ, không được ưu tiên số 1 trong thực tế.
+ Gia đình có tình trạng kinh tế khó khăn: ba mẹ, người lớn không có việc, con cái là nguồn lao động kiếm tiền cho cả gia đình (ở thành thị thì xin ăn, bán vé số, đánh giày; ở nông thôn thì mò cua bắt ốc, làm đồng, làm công việc nặng quá sức mình...). Ở thành thị, người lớn dạy cho nít nói dối, giả bộ đau khổ để làm việc cho mình, miễn để người khác thương và kiếm tiền. Ở nông thôn, người lớn dạy con nít làm công việc nặng nhọc, đi xa nhà làm người giúp việc, giúp gia đình, nuôi em và từ nhỏ trẻ em đã có khái niệm không làm thì không có ăn, không ai nuôi mình.
+ Gia đình có tình trạng kinh tế trung bình: Ba Mẹ người lớn sao thì con trẻ như vậy. Người lớn chọn ăn, mặc, vui chơi giải trí, trường học cho con theo khả năng và không thể bon chen trường chuyên, lớp chọn. Sợ con thua kém, mặc cảm bạn bè, con xin gì cũng lo đủ, không cho học gia sư riêng nhưng cho học thêm.
+ Gia đình có tình trạng kinh tế cao: ba mẹ, người lớn luôn dành những gì tốt nhất cho trẻ con từ ăn, mặc, vui chơi giải trí, trường học, chọn thầy chọn cô và để cho trẻ có suy nghĩ mình là số 1 ( ví dụ con luôn có chế độ ăn riêng, cái gì không ăn được thì bỏ qua chén cho Ba Mẹ; mặc đẹp như hoàng tử, công chúa, đồ hiệu, trường chuyên, lớp chọn, gia sư từng môn học tại nhà, bao nhiêu tiền cũng trả). Trẻ con có khái niệm nhà mình giàu hơn nhà bạn, mình muốn gì được nấy.
- Khi trẻ con đến chỗ công cộng làm đổ, bể, hư hỏng gì, đa số không lo đến trẻ em, coi chúng có bị làm sao, sợ hãi, tổn thương về cơ thể, tinh thần gì không mà chỉ lo đến giá trị đồ bị hư hỏng và bắt cha mẹ chúng đền.
- Ngoài đường thấy tận mắt, nghe tận tai những trường hợp trẻ con bị làm tổn thương về thể xác lẫn tinh thần nhưng những người đồng cảnh, phụ nữ thương trẻ con mới cứu giúp nhau, còn lại cả XH làm ngơ ( Lý do: người gây tội có thế lực mạnh, đụng vào mình bị liên lụy, vạ lây, thiệt thân; một vài lần ra tay giúp nhưng bị giăng bẫy, bị lừa nên có cảm giác đề phòng; nhiều hoàn cảnh xung quanh bị vậy, lo đến chừng nào mới hết; không phải con mình thì việc gì phải lo).
- Tổ chức lễ hay chương trình gì không màng đến trẻ con, trẻ con không có vé nhưng tò mò thì leo tường rào, leo cây để coi ké có thể bị bảo vệ bắt nhốt, tất cả là ưu tiên cho người lớn, cho người có vé, có tiền. Trong chương trình tổ chức sự kiện mời khách không có ghi chú cho trẻ con đi hay không, đám gì người lớn cũng ngại đi vì đưa con đi thì con khóc, sợ làm phiền, để con ở nhà thì bụng dạ không yên tâm ( ngồi ở nơi đây mà hồn ở nhà nghĩ về con).
- Người lớn không hướng dẫn trẻ con, giải thích cho chúng hiểu, trước đám đông khi trẻ con vấp điều sai thì có những trường hợp sau xảy ra:
+ Nhận xét, dạy đời, la mắng, chửi con người khác ( có khi chửi cả ba mẹ chúng vì không biết dạy chúng), chửi người lớn, binh con mình, về nhà đánh phạt, chửi mắng sau.
+ Nhận xét, dạy đời, la mắng, chửi con người khác ( có khi chửi cả ba mẹ chúng vì không biết dạy chúng), chửi người lớn, binh con mình, về nhà không giải thích cho con biết đúng, sai, lẽ phải mà thể hiện cho con biết con là số 1, nhất trên đời.
+ La mắng, đánh con mình trước chỗ đông người vì sợ phải bắt đền, sợ bị ảnh hưởng gì đó, về nhà cảm thấy hối hận và xin lỗi con.
+ Im lặng, không đôi co với con nít, dắt con về và giải thích cho con là phải biết cẩn trọng về sau và phải biết né tránh những đứa trẻ cần né tránh ( vì gia đình nó mạnh, vì mình yếu, vì sẽ không ai binh mình...)
- Người lớn được vô trường tự ý chụp hình trẻ con đăng báo chỉ cần có sự đồng ý của nhà trường.
2.Ở phương Tây: trẻ con được bảo vệ, ưu tiên số 1 trong pháp luật và trong thực tế. Người lớn ghét nhau có thể phỉ báng nhau nhưng sau lưng trẻ con, trước mặt con trẻ luôn nhẫn nại, âu yếm. XH luôn tìm cách động viên người lớn đưa trẻ đến trường, phụ huynh có thể vào lớp quan sát con học, bạn bè của con, phụ huynh có thể trở thành bạn của nhau sau một vài buổi đến trường cùng con. Trẻ con có tiền trợ cấp thì trường đều nói cho biết và nhắc là có về hỏi Ba Mẹ đã dùng số tiền đó mua đồ đúng như nhà trường đã dặn ko...
- Gia đình có tình trạng kinh tế từ cao – thấp thì trẻ con đều được đối xử như nhau ngoài XH và trong nhà trường. Không có trường hợp trẻ con phải lao động, làm việc để nuôi cả nhà, nếu có chỉ là giúp đỡ Ba Mẹ, phụ công việc nhà lặt vặt. Trẻ con làm bạn với nhau hết sức hồn nhiên, chơi với bạn không có khái niệm bạn giàu hơn, nghèo hơn nhà mình. Trẻ có thể rủ bạn thân trong lớp đến nhà mình ngủ. Trước khi trẻ đến nhà bạn thì nhà trường sắp xếp, thông báo, hỏi ý kiến phụ huynh bé rủ bạn đến nhà trước, phụ huynh có khó khăn gì cần nhà trường giúp đỡ thì lên tiếng. Mọi việc được chuẩn bị kỹ càng. Người lớn biết rõ về bạn của con, biết bạn của con có những tính cách gì, không nói xấu bạn con trước mặt con.
- Khi trẻ con đến chỗ công cộng làm đổ, bể, hư hỏng gì, người chủ và nhân viên nơi đó không lo về giá trị món đồ mà lo đến trẻ em, coi chúng có bị làm sao, sợ hãi, tổn thương về cơ thể, tinh thần gì không và xin lỗi cả ba mẹ chúng ( có khi vì tình thương trẻ con thật, đa số vì sợ phạm pháp, bị kiện). Ai làm tổn thương trẻ con mà người khác biết được đều có thể thưa báo với cảnh sát, pháp luật để nghiêm minh trừng trị.
- Tổ chức lễ hay chương trình gì cho người lớn phải chọn nơi xa trường học, không bao giờ được bắt trẻ con lại nhường chỗ cho người lớn, nghỉ học, để dành sân, dành chỗ cho người lớn. Trong chương trình tổ chức sự kiện mà ko cho trẻ con đi thì phải viết ra để người ta ko dắt con đi, trẻ con là số 1, người lớn phạm luật là người lớn bị tù. Những chương trình sự kiện có thông báo được trẻ con đi thì phụ huynh thường trả tiền rất thấp hoặc miễn phí. Trẻ con đi học bằng bus xa mấy cây số ba mẹ chúng cũng yên tâm là vì đi đâu chúng cũng được bảo vệ và chăm sóc tốt, bạn bè quan tâm và biết giúp nhau, ông lái xe bus cũng biết luật về trẻ con.
- Người lớn không được vô trường tự ý chụp hình trẻ con vì bất cứ lý do gì khi chưa có sự đồng ý của nhà trường và phụ huynh học sinh.
II. Mục tiêu của nhà trường:
1. Ở Việt Nam: tập trung dạy trẻ con kiến thức về tất cả mọi mặt 1 cách toàn diện tất cả các môn văn hóa và biết càng sớm càng tốt, 1 đứa trẻ đi học là cả gia đình cùng tất bật lo toan ( lớp 1 đã phải thi để xếp trường, xếp lớp), huấn luyện cho trẻ biết chỉ có học giỏi là số 1, điểm xấu là thất bại, đáng bị cười chê, thầy cô giáo nói gì cũng đúng, Ba Mẹ nói không giống ý cô giáo là không được, vào lớp thi đua, cạnh tranh nhau, chứng tỏ mình hơn bạn, khi bị điểm thấp thì buồn chán, tự ti.
2. Ở phương Tây: dạy trẻ con biết rõ về thầy cô giáo, bạn bè trong lớp, thành thật, công bằng, có trách nhiệm, khi có lỗi thì thành thật nhận lỗi và không đổ lỗi cho người khác, chia sẻ và giúp đỡ bạn bè, biết hợp tác, chấp nhận và thông cảm với bạn khi bạn khác biệt mình ( màu da, sắc tộc, thông minh, chậm chạp…), tôn trọng và thân thiện với mọi người xung quanh.
III. Phương pháp dạy:
1. Ở Việt Nam:
- phấn trắng bảng đen
- Thầy Cô là trung tâm chỉ thầy cô mới có quyền di chuyển trong lớp, Thầy Cô thường ngồi 1 chỗ, học trò ngồi bàn nào là phải ngồi yên cố định, cả lớp phải im lặng trật tự mới là ngoan. Thầy Cô nói gì, cả lớp lặp lại đọc theo y hệt. Chú trọng hình thức học thuộc lòng và trả bài đúng câu chữ.
- Thầy Cô đóng vai trò cung cấp kiến thức, nói hầu hết thời gian trong lớp. Những gì Thầy Cô dạy, nói luôn luôn đúng. Những gì Thầy Cô nói có thể chưa hiểu, hoặc không giống Ba Mẹ dạy cũng không được thắc mắc thêm hoặc được giải thích “ bao giờ lớn thì sẽ hiểu”.
- Khi muốn phát biểu phải giơ tay xin phép, Thầy Cô cho phép mới được quyền nói, trẻ nào trả lời đúng luôn được khen, trẻ nào trả lời sai, bị sửa lỗi trực tiếp.
- Khi phải lựa chọn hình thức, nội dung gì cho lớp làm chung, Thầy Cô giáo là người quyết định, trẻ con không có khái niệm thảo luận, bình chọn ( vote) mà lắng nghe và theo lời Thầy Cô tuyệt đối.
- Học trò không được cầm viết tay trái, thuận tay trái nhưng phải cầm viết bằng tay phải.
- Học sinh cá biệt thường là học sinh bị đánh giá là học dốt, ham chơi, Thầy Cô nói không nghe lời, hay nói chuyện riêng trong lớp. Học sinh cá biệt sợ thầy cô, sợ lên phòng ban giám hiệu và hằn học với những bạn nào nhìn mình với ánh mắt chê cười, không cảm thông.
- Cả trường không chú trọng học sinh cá biệt, chỉ đặc biệt chú trọng phát triển cho học sinh năng khiếu, học giỏi, tham gia phong trào giỏi để thi thố cấp trường, cấp quận, thành phố, quốc gia.
2. Ở phương Tây:
- lớp học như 1 xưởng đồ chơi, mọi thứ sắp xếp ngăn nắp, giờ nào việc nấy, đồ dùng của chung dùng chung cho cả lớp, đồ dùng riêng thì để trong hộc bàn trẻ ngồi, hộp tủ của trường, ra về có thể để lại trong hộc bàn, không ai lấy đồ của ai, bạn nào thiếu, để quên đồ dùng học tập thì bạn kế bên cho mượn và mượn xong thì trả lại. Trẻ luôn biết đồ dùng chung để ở đâu, biết giữ gìn cẩn thận vì lần sau sẽ sử dụng lại. Chương trình học giúp cho trẻ phát triển tính cách biết quan tâm, chia sẻ với người xung quanh, kỹ năng sống chung với bạn bè, ngoài XH, giúp trẻ nhận biết tình thương yêu với người xung quanh yêu thương gia đình, thương mến và giúp đỡ bè bạn, thương và quý trọng Thầy Cô giáo như Ba Mẹ ở trường.
- Thầy Cô di chuyển đều trong lớp để phát hiện và giúp học trò nào cần trợ giúp. Học trò có thể di chuyển trong lớp để trao đổi với bạn bè và tiếp tục làm công việc của mình.
- Thầy Cô đóng vai trò hướng dẫn và cân bằng lớp học, học trò là trung tâm, Thầy Cô dành thời gian để học trò luyện tập, trao đổi, phát huy sự sáng tạo.
- Những gì Thầy Cô dạy là hướng dẫn rõ ràng cụ thể, từng bước 1 để cá lớp đều hiểu cách làm, kiểm tra học trò có hiểu lời hướng dẫn và dành thời gian cho cả lớp luyện tập.
- Có điều gì chưa hiểu, chưa rõ trẻ có quyền hỏi trực tiếp trước lớp và cả lớp cùng nghe, nói ý kiến của mình về câu hỏi đó hoặc Thầy Cô giải thích và để cho học trò suy nghĩ thêm theo hướng của chính chúng. Thầy Cô luôn khuyến khích học trò đặt câu hỏi để biết trò muốn gì, trông đợi điều gì.
- Thầy Cô không la, mắng, sửa trực tiếp học trò ( cái này đúng – cái kia sai, phải nói như vậy mới chuẩn …), không dùng từ ngữ tiêu cực đối với các bé mà tôn trọng chúng như những người bạn.
- Khi phải lựa chọn hình thức, nội dung gì cho lớp làm chung, Thầy Cô giáo là người trọng tài, trẻ con trong lớp có quyền thảo luận và bình chọn ( vote), đa số thắng thiểu số và quyết định nghiêng về đa số sẽ được chọn.
- Học trò cầm viết bằng tay nào cũng được.
- Học sinh cá biệt là 1 bé hoặc 1 nhóm bé có biểu hiện buồn bực hoặc có hành vi, cử chỉ trực tiếp hay gián tiếp xúc phạm, làm quê bạn, nhóm bạn khác trong lớp về thể chất, tinh thần hoặc qua tin nhắn, trên mạng. Học sinh cá biệt không thích ở trong lớp nhưng thích nói chuyện với người lớn, Thầy Cô, Hiệu trưởng, những người mà chúng nhận ra là lắng nghe, trìu mến và quan tâm chúng, biết chúng cần gì.
- Cả trường chú trọng học sinh cá biệt, hội đồng nhà trường, Thầy Cô giáo bàn bạc thảo luận riêng và để ý hành vi, cử chỉ của em học sinh cá biệt trong lớp, phối hợp với gia đình để có phương pháp thích hợp, giúp em trở lại với lớp tự nhiên và tự tin. Không chú trọng phát triển cho 1 em học sinh năng khiếu nào riêng lẻ, học giỏi, tham gia phong trào giỏi để thi thố cấp trường, cấp quận, thành phố, quốc gia. Chú trọng về mặt thể chất và các mặt ca hát, thể thao, sở trường cho các bé theo hình thức tập thể.
IV. Chương trình học:
1. Ở Việt Nam: nặng nề, mang tính hình thức, nhồi nhét, học thuộc lòng, phải học quá nhiều môn học, vượt quá khả năng tâm sinh lý của trẻ, không nghiên cứu về tâm lý lứa tuổi khi biên soạn chương trình.
+ Học Toán cao khi khả năng tư duy, logic, suy xét chưa có.
+ Học văn bài mẫu
+ Các môn khác học thuộc lòng.
+ Các môn thủ công ngoài khả năng của trẻ, 1 là trẻ rất giỏi ( hiếm), 2 là Ba Mẹ anh chị làm dùm.
- Một bé đi học cả nhà cùng học, trẻ luôn đầu tắt mặt tối với bài tập trong lớp, về nhà, ăn cũng học, ngủ cũng nằm mơ thấy học. Ban ngày học ở trường, chiều tối học ở nhà thầy cô, với gia sư hoặc học thêm ngoại ngữ, cuối tuần cũng học, cả gia đình không có cảm giác thoải mái, vui chơi, tất cả hy sinh vì con.
- Không dạy cho trẻ con kỹ năng chia sẻ, học chung, làm việc chung với bạn bè, người xung quanh. Coi trọng cá nhân mình là độc tôn và thể hiện mình, muốn người khác phải biết về mình nên nói về mình, gia đình mình càng nhiều càng tốt.
2. Ở phương Tây: bài bản, không mang tính hình thức, mà tập trung kỹ năng của trẻ và để trẻ tự làm, trẻ luôn biết mình phải làm gì vào ngày học kế tiếp vì có sự dặn dò, ghi chép của Thầy Cô, dạy cho trẻ tư duy và phản biện ( suy nghĩ, nói ý kiến riêng của mình, thắc mắc câu hỏi của Thầy Cô, bạn bè, tự phân biệt và chọn lựa cái gì thích hợp với mình, không chê người khác và lắng nghe ý kiến của người khác). Chỉ học thuộc lòng 1 vài điều nhỏ ( viết chính tả), còn lại là lĩnh hội từ từ do thói quen, do tự học từ người lớn. Chương trình được biên soạn dựa vào khả tâm sinh lý, lứa tuổi cụ thể của trẻ, khi có những trường hợp xấu phát sinh thì Thầy Cô nêu lên trong trường để cùng nhau bàn bạc, tháo gỡ khúc mắc, tập trung phát triển sự sáng tạo của trẻ và giải thích khi cần thiết. Trẻ ngoài giờ học trên lớp không phải học thêm, cuối tuần thoải mái vui chơi, giải trí. Mỗi tháng trường có tổ chức cho trẻ trong trường ( có thể mời phụ huynh) tham gia hoạt động sơn sửa, làm mô hình cho trường, làm project sau khi học sinh đã thống nhất với nhau trong lớp ( vào trường vào sáng chủ nhật và báo trước cho phụ huynh)
- Học Toán đơn giản, cộng trừ nhân chia đơn giản.
- Không có bài văn mẫu, mỗi bài mỗi vẻ, ai cũng được khen ngợi. Trẻ biết về đạo văn, không được copy bài của người khác, người đi trước làm bài của mình
- Các môn đọc hiểu, viết chính tả, bài toán được thực hiện trong lớp và làm ở nhà, có kiểm tra và trong tầm khả năng của trẻ.
- Không có những môn ngoài khả năng của trẻ. Chú trọng dạy trẻ con những kỹ năng cơ bản trong môi trường cộng đồng và kỹ năng sống cho bản thân.
+ Kỹ năng sống trong môi trường cộng đồng : cám ơn chân thành khi người khác làm mình vui, xin lỗi và tránh đụng chạm người khác, lúc nào cũng có chữ “vui lòng”( please) khi nhờ ai giúp, cầu cứu ai làm việc gì cho mình, quan tâm và chia sẻ với người khác; sẵn sàng giúp đỡ người khác khi họ cần; luôn xếp hàng ( first comes, first serves) trong mọi trường hợp; biết quan tâm, động viên bạn bè, người thân khi thấy họ buồn, khóc, đau khổ; biết khen ngợi, khuyến khích, động viên người thân, người xung quanh, người nhỏ hơn mình khi thấy họ đáng yêu “ good boy”, “good girl”; biết bảo vệ người thân, bạn bè; biết góp ý người khác 1 cách gián tiếp, chân thành và không làm tổn thương họ trên tinh thần cùng nhau học hỏi ( I learn from you, and you learn from me), biết nêu ý kiến của mình và giải thích vì sao mình nói vậy, nghĩ vậy, làm vậy; thắc mắc khi người lớn nói mà không hiểu, thắc mắc về những điều xung quanh với Ba Mẹ, bạn bè, yêu thương cây cối, động vật, môi trường xung quanh.
+ Kỹ năng sống cho bản thân: làm người tự giác lo cho mình, không ỷ lại người khác; té thì đứng dậy, đi tiếp; có lỗi thì nhận lỗi và không ai cười chê mình; biết cầm muỗng nĩa, phân biệt tô, ly, chén nào trong bàn ăn, các loại tiệc ( cái này giúp khi ra đời ai cũng như ai, không phân biệt giàu nghèo, lịch sự, quê mùa); biết cầm dao đúng cách, biết thức ăn nào đi với nước chấm gì, biết tự mặc áo quần, biết làm món ăn mà mọi người hay ăn, chọn môn thể thao, âm nhạc, hội họa mình ưa thích; biết về nơi xung quanh mình ở; biết thích nghi với mọi hoàn cảnh ( ở trường, ở nhà bạn, sinh hoạt ngoài trời, đi picnic…)
V. Tuyển giáo viên
1. Ở Việt Nam: giống nhau trên giấy nhưng bên trong có những qui luật bất thành văn mà chỉ có người đi xin việc và người nhận việc mới biết. Không cần biết tiền sử người nộp đơn có vi phạm luật giáo dục ở trường khác, nơi khác không.
2. Ở phương Tây: qui tắc đầu tiên để nộp đơn xin làm giáo viên là phải có đầy đủ bằng cấp đào tạo bài bản do 1 trường đại học cấp bằng, có chứng chỉ đào tạo về dạy trẻ con theo qui định của bang, nước đó; có giấy tờ duyệt của cảnh sát nước đó (Police Check ) là người xin việc không phạm tội, không có hành vi xấu với trẻ con, xin việc volunteer hay trả tiền đều phải có có thẻ “ Làm việc trong môi trường trẻ con” ( Working with children check ). Ở Úc thẻ này có giá trị 5 năm, hết thời hạn phải làm lại và trong thời hạn mà vi phạm gì về luật bảo vệ trẻ em sẽ bị thu hồi thẻ. Tất cả giáo viên phải có kỹ năng giao tiếp tốt và đáp ứng những nhu cầu của trường học đề ra trong môi trường trẻ con.
VI. Dạy trẻ em học ngoại ngữ ở 2 nơi
1. Ở Việt Nam: đa số giáo viên trong các trường là giáo viên Việt Nam. Trình độ, khả năng ngoại ngữ của giáo viên chưa cân bằng giữa vùng, miền, thành thị, nông thôn. Ở nhiều nơi vùng miền xa xôi, ngoại ngữ được học bằng môn thay thế hoặc bắt đầu học ngoại ngữ từ lớp 10 ( hệ 3 năm). Trẻ em ở thành thị có nhu cầu, điều kiện học ngoại ngữ tốt hơn, giao tiếp tốt hơn trẻ em ở nông thôn, miền núi, miền xa. Tình trạng đó gây ra nhữngthái độ, hành vi tâm lý học ngoại ngữ khác nhau ở trẻ:
+ Trẻ em nhà không có điều kiện kinh tế khó khăn hoặc ở môi trường nông thôn, miền núi, miền xa : trẻ có cảm giác sợ học ngoại ngữ, học ngoại ngữ gặp khó khăn, thua sút bạn bè khi ở môi trường đại học, cao đẳng.
+ Trẻ em nhà có điều kiện kinh tế trung bình và ở nơi có môi trường học tiếng Anh bình thường: nói tiếng Việt vững và học ngoại ngữ cố gắng, khi đam mê và yêu thích môn học từ nhỏ thì chính các em sẽ tìm mọi cách học tốt.
+ Trẻ em nhà có điều kiện kinh tế khá giả, nhà ở thành thị, trung tâm: được gửi học trường quốc tế, trường tiếng Anh do người nước ngoài dạy hoặc được gửi học ngoại ngữ từ rất sớm. Nhiều gia đình có tâm lý “sính ngoại”, thích con học ngoại ngữ tốt từ nhỏ nên luôn khuyến khích con nói ngoại ngữ trong trường học, ở nhà lẫn môi trường xung quanh nên có trường hợp trẻ nói giỏi tiếng Anh hơn tiếng Việt, sống trong môi trường Việt Nam mà cứ nghĩ như mình đang ở nước ngoài. Trẻ vào lớp có khi chê Thầy Cô giáo ngoại ngữ người Việt ra mặt, phụ huynh tự hào với người xung quanh là con mình giỏi ngoại ngữ. Nhiều trẻ em học ngoại ngữ được đi học với người nước ngoài thích hơn học với Thầy Cô Việt, luôn muốn nói chuyện với người nước ngoài.
2. Ở phương Tây: vì môi trường đa văn hóa, đa sắc tộc nên các trường học tuyển mời giáo viên dạy ngoại ngữ có gốc nói tiếng mẹ đẻ ngôn ngữ đó ở trường họ. Mỗi trường có ngoại ngữ khác nhau tùy theo cộng đồng dân vùng nào ở nhiều nhất ở vùng có trường học đó. Ví dụ: suburb vùng đó có nhiều dân Ý, Hy Lạp thì ngoại ngữ trong trường là 2 tiếng đó, suburb vùng nào có nhiều người Indonesia, Ả Rập thì trường đó dạy 2 ngoại ngữ đó.
VII. Suy nghĩ của trẻ em ở Việt Nam về việc học tiếng Anh và suy nghĩ của trẻ em gốc Việt ở phương Tây về việc học tiếng Việt
1. Giống nhau: Ở Việt Nam hay phương Tây, trẻ con đều nghịch ngợm, thích làm những gì mà người cùng tuổi, cùng trường đang làm và càng khác người càng tốt; thời công nghệ thông tin và internet phát triển, trẻ con ngày nay đang biến hóa ngôn ngữ viết theo cách riêng của chúng, theo phim ảnh, Internet, youtube, tin nhắn, email … mà nếu người lớn không tìm hiểu thì sẽ không hiểu ngôn ngữ viết của trẻ con bây giờ. Nếu như ở Việt Nam, người lớn , Ba Mẹ, Thầy Cô giáo đang đau đầu với chữ viết tiếng Việt, ngôn ngữ chat, trong bài văn, tin nhắn của trẻ con thì ở phương Tây cũng y hệt vậy, tiếng Anh cũng đang bị biến tấu đủ kiểu. Ngay cả những nhà ngôn ngữ phương Tây cũng không hiểu con họ viết gì khi nhắn tin, email cho họ. Tôi còn nhớ năm 2007 dự hội thảo TESOL tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, 1 nhà ngôn ngữ nổi tiếng kể câu chuyện rằng vợ chồng ông đi dạy ở Thailand và email là phương tiện liên lạc với cậu con trai đang học ở Mỹ. Hai vợ chồng ông hỏi con đủ thứ, lo lắng cho con và viết ngôn ngữ bình thường trong email. Bao nhiêu chờ mong hy vọng cuối cùng đứa con trả lời email bằng 1 ký tự ngắn gọn “k”. Sau đó ông hỏi Ba Mẹ của người bạn mới biết đó là chữ “ok”, có nghĩa là mọi việc đều ổn. Không chỉ trẻ con mà teen, người trên teen và thanh niên dễ tính đều có thể vô thức bắt chước ngôn ngữ biến tấu kiểu này và mất dần ngôn ngữ mẹ đẻ.
2. Khác nhau:
- Ở Việt Nam: Trẻ em nào cũng thích học tiếng Anh vì hầu hết phim hoạt hình vui nhộn sản xuất ở Mỹ, phim Harry Porter… hiện nay đều là ngôn ngữ tiếng Anh, bài hát tiếng Anh dễ thương, các bạn nhỏ nước ngoài cũng hồn nhiên, vô tư như mình. Các em thấy người nước ngoài đi ngoài đường thì thích phong cách của họ, ai cũng yêu con nít và chụp hình ảnh của trẻ con rất tự nhiên, không áp đặt trẻ con phải làm kiểu làm mẫu. Bảng chữ cái tiếng Anh thì nhớ hết ( vì dễ thuộc và học qua bài hát), còn hỏi bảng chữ cái tiếng Việt có bao nhiêu ký tự chưa chắc trả lời được.
- Ở phương Tây: Trẻ em gốc Việt thích học ngoại ngữ trong trường mà chúng cảm thấy chúng có thể cảm thụ tốt, Thầy Cô dạy dễ hiểu, vui nhộn, được luyện tập với bạn bè và không có tính áp đặt, không giải thích. Tôi tình cờ hỏi 1 vài bé học tiếng Việt ở Úc thì các bé nói không thích học tiếng Việt ở trường dạy tiếng Việt ( ở trường và cả ở trường Việt ngữ ngày chủ nhật) và vì thương Ba Mẹ trả tiền, chở đi học nên mới đi học chứ cách dạy không mang lại hứng thú, phải ngồi yên 1 chỗ trong lớp, Thầy Cô nói nhiều, các bé phải lặp lại theo và không hiểu tại sao, Thầy Cô chỉ khen ngợi những bé học giỏi, làm bài tập đầy đủ trong lớp, la rầy hoặc không để ý những bé khác không theo kịp, nên đa số chỉ mong đợi đến giờ ra chơi. Ra chơi thì tất cả trẻ con bu lại và nói tiếng Anh. Khi làm bài tập trong sách tiếng Việt thì có những câu không muốn trả lời vì hỏi cá nhân, riêng tư, trong trường học các em học hằng ngày, không bao giờ hỏi chuyện riêng tư của người ta như thế ( ví dụ: Nhà em ở đâu ? Nhà em có mấy anh chị em ? Cha mẹ em làm nghề gì ? Nhà em có hạnh phúc không ?...) Trẻ em nói học tiếng Việt hiệu quả nhất là từ Ba Mẹ nhưng Ba Mẹ phải đi làm, không có thời gian nói chuyện.
VIII. Người học TESOL tại Úc đến từ Trung Quốc ra trường làm gì ở Úc ?
Đa số SV quốc tế các nước phương Đông, các nước đang phát triển ( Việt Nam, Indonesia, Campuchia, Lào… ) học TESOL để trở về nước dạy tiếng Anh cho học trò nước mình. SV các nước phát triển và sử dụng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ ( Mỹ, Úc, Anh, Canada…) học thêm bằng, chứng chỉ TESOL để đáp ứng tiêu chuẩn về bằng cấp để đi dạy tiếng Anh ở các nước cần họ và các nước đang trả tiền cao cho giáo viên nói tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ ( Nhật, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc). Còn SV Trung Quốc học TESOL, giáo dục tiểu học không phải để trở về nước mà để xin dạy tiếng Hoa ở các trường tiểu học ở Úc, dạy tiếng Hoa ở trong các trung tâm , trường Hoa ngữ ở Úc. Họ đã đi trước tất cả các giáo viên các nước 1 bước ở chỗ họ học cách dạy tiếng Anh để hiểu tâm lý lứa tuổi vừa học văn hóa của phương Tây để biết trẻ con trong trường học ở Úc muốn gì học như thế nào để dạy tiếng Hoa cho hiệu quả và trẻ con luôn thích học tiếng Hoa. Tài liệu học TESOL trong lớp các sinh viên quốc tế phải đọc bằng tiếng Anh để làm bài , SV Trung Quốc đọc tài liệu tương tự bằng tiếng Hoa ( người đi trước đã dịch tiếng Anh ra thành tiếng Hoa hầu như tất cả các cuốn sách về phương pháp giảng dạy tiếng Anh ...) và khi tranh luận với lớp, họ đọc tài liệu bằng tiếng Hoa và dịch ra tiếng Anh.
Vậy thì đâu là nguyên nhân làm mai một tiếng Việt ? Có phải chính suy nghĩ và cách làm của người lớn là nguyên nhân làm mai một tiếng Việt chứ trẻ em thì rất vô tư ?
* Giống nhau:
- Trẻ em là 1 tờ giấy trắng, hồn nhiên, tinh nghịch, tò mò và cũng biết suy nghĩ, chịu nghe người lớn giải thích.
- Môi trường như thế nào thì trẻ con sẽ như thế đó, là mẫu sao y bản chánh của người lớn.
- Trẻ em phân biệt được ai xấu, ai tốt với mình.
- Trẻ em có những điều chỉ kể với Ba Mẹ, không kể với Thầy Cô và ngược lại.
* Khác nhau:
Cảm nhận đầu tiên của tôi: khi hỏi trẻ em ở Úc về trường học như thế nào thì chúng thao thao kể cho nghe, mình không biết cách ngưng câu chuyện. Những người bạn Úc của tôi (người gốc Việt cũng như Úc Tây) đã dẫn tôi đến trường học cấp 1 của họ giới thiệu vì đó là là nơi họ cảm thấy vui , có nhiều kỷ niệm và nhớ về Thầy Cô của họ ( có khi không nhớ tên), dù bao năm rồi. Còn hỏi trẻ em ở Việt Nam về việc học thì bé nào cũng ngán và lắc đầu "Không biết chừng nào mới hết học ! Học hoài ! Con chỉ muốn đi chơi ..."
I. Luật pháp, môi trường XH nói chung:
1. Ở Việt Nam: trừ ba mẹ, người thân của trẻ con, những người thương yêu con trẻ và những phụ huynh tốt bụng, tử tế ra, trẻ con chỉ được ưu ái số 1 trên giấy tờ, không được ưu tiên số 1 trong thực tế.
+ Gia đình có tình trạng kinh tế khó khăn: ba mẹ, người lớn không có việc, con cái là nguồn lao động kiếm tiền cho cả gia đình (ở thành thị thì xin ăn, bán vé số, đánh giày; ở nông thôn thì mò cua bắt ốc, làm đồng, làm công việc nặng quá sức mình...). Ở thành thị, người lớn dạy cho nít nói dối, giả bộ đau khổ để làm việc cho mình, miễn để người khác thương và kiếm tiền. Ở nông thôn, người lớn dạy con nít làm công việc nặng nhọc, đi xa nhà làm người giúp việc, giúp gia đình, nuôi em và từ nhỏ trẻ em đã có khái niệm không làm thì không có ăn, không ai nuôi mình.
+ Gia đình có tình trạng kinh tế trung bình: Ba Mẹ người lớn sao thì con trẻ như vậy. Người lớn chọn ăn, mặc, vui chơi giải trí, trường học cho con theo khả năng và không thể bon chen trường chuyên, lớp chọn. Sợ con thua kém, mặc cảm bạn bè, con xin gì cũng lo đủ, không cho học gia sư riêng nhưng cho học thêm.
+ Gia đình có tình trạng kinh tế cao: ba mẹ, người lớn luôn dành những gì tốt nhất cho trẻ con từ ăn, mặc, vui chơi giải trí, trường học, chọn thầy chọn cô và để cho trẻ có suy nghĩ mình là số 1 ( ví dụ con luôn có chế độ ăn riêng, cái gì không ăn được thì bỏ qua chén cho Ba Mẹ; mặc đẹp như hoàng tử, công chúa, đồ hiệu, trường chuyên, lớp chọn, gia sư từng môn học tại nhà, bao nhiêu tiền cũng trả). Trẻ con có khái niệm nhà mình giàu hơn nhà bạn, mình muốn gì được nấy.
- Khi trẻ con đến chỗ công cộng làm đổ, bể, hư hỏng gì, đa số không lo đến trẻ em, coi chúng có bị làm sao, sợ hãi, tổn thương về cơ thể, tinh thần gì không mà chỉ lo đến giá trị đồ bị hư hỏng và bắt cha mẹ chúng đền.
- Ngoài đường thấy tận mắt, nghe tận tai những trường hợp trẻ con bị làm tổn thương về thể xác lẫn tinh thần nhưng những người đồng cảnh, phụ nữ thương trẻ con mới cứu giúp nhau, còn lại cả XH làm ngơ ( Lý do: người gây tội có thế lực mạnh, đụng vào mình bị liên lụy, vạ lây, thiệt thân; một vài lần ra tay giúp nhưng bị giăng bẫy, bị lừa nên có cảm giác đề phòng; nhiều hoàn cảnh xung quanh bị vậy, lo đến chừng nào mới hết; không phải con mình thì việc gì phải lo).
- Tổ chức lễ hay chương trình gì không màng đến trẻ con, trẻ con không có vé nhưng tò mò thì leo tường rào, leo cây để coi ké có thể bị bảo vệ bắt nhốt, tất cả là ưu tiên cho người lớn, cho người có vé, có tiền. Trong chương trình tổ chức sự kiện mời khách không có ghi chú cho trẻ con đi hay không, đám gì người lớn cũng ngại đi vì đưa con đi thì con khóc, sợ làm phiền, để con ở nhà thì bụng dạ không yên tâm ( ngồi ở nơi đây mà hồn ở nhà nghĩ về con).
- Người lớn không hướng dẫn trẻ con, giải thích cho chúng hiểu, trước đám đông khi trẻ con vấp điều sai thì có những trường hợp sau xảy ra:
+ Nhận xét, dạy đời, la mắng, chửi con người khác ( có khi chửi cả ba mẹ chúng vì không biết dạy chúng), chửi người lớn, binh con mình, về nhà đánh phạt, chửi mắng sau.
+ Nhận xét, dạy đời, la mắng, chửi con người khác ( có khi chửi cả ba mẹ chúng vì không biết dạy chúng), chửi người lớn, binh con mình, về nhà không giải thích cho con biết đúng, sai, lẽ phải mà thể hiện cho con biết con là số 1, nhất trên đời.
+ La mắng, đánh con mình trước chỗ đông người vì sợ phải bắt đền, sợ bị ảnh hưởng gì đó, về nhà cảm thấy hối hận và xin lỗi con.
+ Im lặng, không đôi co với con nít, dắt con về và giải thích cho con là phải biết cẩn trọng về sau và phải biết né tránh những đứa trẻ cần né tránh ( vì gia đình nó mạnh, vì mình yếu, vì sẽ không ai binh mình...)
- Người lớn được vô trường tự ý chụp hình trẻ con đăng báo chỉ cần có sự đồng ý của nhà trường.
2.Ở phương Tây: trẻ con được bảo vệ, ưu tiên số 1 trong pháp luật và trong thực tế. Người lớn ghét nhau có thể phỉ báng nhau nhưng sau lưng trẻ con, trước mặt con trẻ luôn nhẫn nại, âu yếm. XH luôn tìm cách động viên người lớn đưa trẻ đến trường, phụ huynh có thể vào lớp quan sát con học, bạn bè của con, phụ huynh có thể trở thành bạn của nhau sau một vài buổi đến trường cùng con. Trẻ con có tiền trợ cấp thì trường đều nói cho biết và nhắc là có về hỏi Ba Mẹ đã dùng số tiền đó mua đồ đúng như nhà trường đã dặn ko...
- Gia đình có tình trạng kinh tế từ cao – thấp thì trẻ con đều được đối xử như nhau ngoài XH và trong nhà trường. Không có trường hợp trẻ con phải lao động, làm việc để nuôi cả nhà, nếu có chỉ là giúp đỡ Ba Mẹ, phụ công việc nhà lặt vặt. Trẻ con làm bạn với nhau hết sức hồn nhiên, chơi với bạn không có khái niệm bạn giàu hơn, nghèo hơn nhà mình. Trẻ có thể rủ bạn thân trong lớp đến nhà mình ngủ. Trước khi trẻ đến nhà bạn thì nhà trường sắp xếp, thông báo, hỏi ý kiến phụ huynh bé rủ bạn đến nhà trước, phụ huynh có khó khăn gì cần nhà trường giúp đỡ thì lên tiếng. Mọi việc được chuẩn bị kỹ càng. Người lớn biết rõ về bạn của con, biết bạn của con có những tính cách gì, không nói xấu bạn con trước mặt con.
- Khi trẻ con đến chỗ công cộng làm đổ, bể, hư hỏng gì, người chủ và nhân viên nơi đó không lo về giá trị món đồ mà lo đến trẻ em, coi chúng có bị làm sao, sợ hãi, tổn thương về cơ thể, tinh thần gì không và xin lỗi cả ba mẹ chúng ( có khi vì tình thương trẻ con thật, đa số vì sợ phạm pháp, bị kiện). Ai làm tổn thương trẻ con mà người khác biết được đều có thể thưa báo với cảnh sát, pháp luật để nghiêm minh trừng trị.
- Tổ chức lễ hay chương trình gì cho người lớn phải chọn nơi xa trường học, không bao giờ được bắt trẻ con lại nhường chỗ cho người lớn, nghỉ học, để dành sân, dành chỗ cho người lớn. Trong chương trình tổ chức sự kiện mà ko cho trẻ con đi thì phải viết ra để người ta ko dắt con đi, trẻ con là số 1, người lớn phạm luật là người lớn bị tù. Những chương trình sự kiện có thông báo được trẻ con đi thì phụ huynh thường trả tiền rất thấp hoặc miễn phí. Trẻ con đi học bằng bus xa mấy cây số ba mẹ chúng cũng yên tâm là vì đi đâu chúng cũng được bảo vệ và chăm sóc tốt, bạn bè quan tâm và biết giúp nhau, ông lái xe bus cũng biết luật về trẻ con.
- Người lớn không được vô trường tự ý chụp hình trẻ con vì bất cứ lý do gì khi chưa có sự đồng ý của nhà trường và phụ huynh học sinh.
II. Mục tiêu của nhà trường:
1. Ở Việt Nam: tập trung dạy trẻ con kiến thức về tất cả mọi mặt 1 cách toàn diện tất cả các môn văn hóa và biết càng sớm càng tốt, 1 đứa trẻ đi học là cả gia đình cùng tất bật lo toan ( lớp 1 đã phải thi để xếp trường, xếp lớp), huấn luyện cho trẻ biết chỉ có học giỏi là số 1, điểm xấu là thất bại, đáng bị cười chê, thầy cô giáo nói gì cũng đúng, Ba Mẹ nói không giống ý cô giáo là không được, vào lớp thi đua, cạnh tranh nhau, chứng tỏ mình hơn bạn, khi bị điểm thấp thì buồn chán, tự ti.
2. Ở phương Tây: dạy trẻ con biết rõ về thầy cô giáo, bạn bè trong lớp, thành thật, công bằng, có trách nhiệm, khi có lỗi thì thành thật nhận lỗi và không đổ lỗi cho người khác, chia sẻ và giúp đỡ bạn bè, biết hợp tác, chấp nhận và thông cảm với bạn khi bạn khác biệt mình ( màu da, sắc tộc, thông minh, chậm chạp…), tôn trọng và thân thiện với mọi người xung quanh.
III. Phương pháp dạy:
1. Ở Việt Nam:
- phấn trắng bảng đen
- Thầy Cô là trung tâm chỉ thầy cô mới có quyền di chuyển trong lớp, Thầy Cô thường ngồi 1 chỗ, học trò ngồi bàn nào là phải ngồi yên cố định, cả lớp phải im lặng trật tự mới là ngoan. Thầy Cô nói gì, cả lớp lặp lại đọc theo y hệt. Chú trọng hình thức học thuộc lòng và trả bài đúng câu chữ.
- Thầy Cô đóng vai trò cung cấp kiến thức, nói hầu hết thời gian trong lớp. Những gì Thầy Cô dạy, nói luôn luôn đúng. Những gì Thầy Cô nói có thể chưa hiểu, hoặc không giống Ba Mẹ dạy cũng không được thắc mắc thêm hoặc được giải thích “ bao giờ lớn thì sẽ hiểu”.
- Khi muốn phát biểu phải giơ tay xin phép, Thầy Cô cho phép mới được quyền nói, trẻ nào trả lời đúng luôn được khen, trẻ nào trả lời sai, bị sửa lỗi trực tiếp.
- Khi phải lựa chọn hình thức, nội dung gì cho lớp làm chung, Thầy Cô giáo là người quyết định, trẻ con không có khái niệm thảo luận, bình chọn ( vote) mà lắng nghe và theo lời Thầy Cô tuyệt đối.
- Học trò không được cầm viết tay trái, thuận tay trái nhưng phải cầm viết bằng tay phải.
- Học sinh cá biệt thường là học sinh bị đánh giá là học dốt, ham chơi, Thầy Cô nói không nghe lời, hay nói chuyện riêng trong lớp. Học sinh cá biệt sợ thầy cô, sợ lên phòng ban giám hiệu và hằn học với những bạn nào nhìn mình với ánh mắt chê cười, không cảm thông.
- Cả trường không chú trọng học sinh cá biệt, chỉ đặc biệt chú trọng phát triển cho học sinh năng khiếu, học giỏi, tham gia phong trào giỏi để thi thố cấp trường, cấp quận, thành phố, quốc gia.
2. Ở phương Tây:
- lớp học như 1 xưởng đồ chơi, mọi thứ sắp xếp ngăn nắp, giờ nào việc nấy, đồ dùng của chung dùng chung cho cả lớp, đồ dùng riêng thì để trong hộc bàn trẻ ngồi, hộp tủ của trường, ra về có thể để lại trong hộc bàn, không ai lấy đồ của ai, bạn nào thiếu, để quên đồ dùng học tập thì bạn kế bên cho mượn và mượn xong thì trả lại. Trẻ luôn biết đồ dùng chung để ở đâu, biết giữ gìn cẩn thận vì lần sau sẽ sử dụng lại. Chương trình học giúp cho trẻ phát triển tính cách biết quan tâm, chia sẻ với người xung quanh, kỹ năng sống chung với bạn bè, ngoài XH, giúp trẻ nhận biết tình thương yêu với người xung quanh yêu thương gia đình, thương mến và giúp đỡ bè bạn, thương và quý trọng Thầy Cô giáo như Ba Mẹ ở trường.
- Thầy Cô di chuyển đều trong lớp để phát hiện và giúp học trò nào cần trợ giúp. Học trò có thể di chuyển trong lớp để trao đổi với bạn bè và tiếp tục làm công việc của mình.
- Thầy Cô đóng vai trò hướng dẫn và cân bằng lớp học, học trò là trung tâm, Thầy Cô dành thời gian để học trò luyện tập, trao đổi, phát huy sự sáng tạo.
- Những gì Thầy Cô dạy là hướng dẫn rõ ràng cụ thể, từng bước 1 để cá lớp đều hiểu cách làm, kiểm tra học trò có hiểu lời hướng dẫn và dành thời gian cho cả lớp luyện tập.
- Có điều gì chưa hiểu, chưa rõ trẻ có quyền hỏi trực tiếp trước lớp và cả lớp cùng nghe, nói ý kiến của mình về câu hỏi đó hoặc Thầy Cô giải thích và để cho học trò suy nghĩ thêm theo hướng của chính chúng. Thầy Cô luôn khuyến khích học trò đặt câu hỏi để biết trò muốn gì, trông đợi điều gì.
- Thầy Cô không la, mắng, sửa trực tiếp học trò ( cái này đúng – cái kia sai, phải nói như vậy mới chuẩn …), không dùng từ ngữ tiêu cực đối với các bé mà tôn trọng chúng như những người bạn.
- Khi phải lựa chọn hình thức, nội dung gì cho lớp làm chung, Thầy Cô giáo là người trọng tài, trẻ con trong lớp có quyền thảo luận và bình chọn ( vote), đa số thắng thiểu số và quyết định nghiêng về đa số sẽ được chọn.
- Học trò cầm viết bằng tay nào cũng được.
- Học sinh cá biệt là 1 bé hoặc 1 nhóm bé có biểu hiện buồn bực hoặc có hành vi, cử chỉ trực tiếp hay gián tiếp xúc phạm, làm quê bạn, nhóm bạn khác trong lớp về thể chất, tinh thần hoặc qua tin nhắn, trên mạng. Học sinh cá biệt không thích ở trong lớp nhưng thích nói chuyện với người lớn, Thầy Cô, Hiệu trưởng, những người mà chúng nhận ra là lắng nghe, trìu mến và quan tâm chúng, biết chúng cần gì.
- Cả trường chú trọng học sinh cá biệt, hội đồng nhà trường, Thầy Cô giáo bàn bạc thảo luận riêng và để ý hành vi, cử chỉ của em học sinh cá biệt trong lớp, phối hợp với gia đình để có phương pháp thích hợp, giúp em trở lại với lớp tự nhiên và tự tin. Không chú trọng phát triển cho 1 em học sinh năng khiếu nào riêng lẻ, học giỏi, tham gia phong trào giỏi để thi thố cấp trường, cấp quận, thành phố, quốc gia. Chú trọng về mặt thể chất và các mặt ca hát, thể thao, sở trường cho các bé theo hình thức tập thể.
IV. Chương trình học:
1. Ở Việt Nam: nặng nề, mang tính hình thức, nhồi nhét, học thuộc lòng, phải học quá nhiều môn học, vượt quá khả năng tâm sinh lý của trẻ, không nghiên cứu về tâm lý lứa tuổi khi biên soạn chương trình.
+ Học Toán cao khi khả năng tư duy, logic, suy xét chưa có.
+ Học văn bài mẫu
+ Các môn khác học thuộc lòng.
+ Các môn thủ công ngoài khả năng của trẻ, 1 là trẻ rất giỏi ( hiếm), 2 là Ba Mẹ anh chị làm dùm.
- Một bé đi học cả nhà cùng học, trẻ luôn đầu tắt mặt tối với bài tập trong lớp, về nhà, ăn cũng học, ngủ cũng nằm mơ thấy học. Ban ngày học ở trường, chiều tối học ở nhà thầy cô, với gia sư hoặc học thêm ngoại ngữ, cuối tuần cũng học, cả gia đình không có cảm giác thoải mái, vui chơi, tất cả hy sinh vì con.
- Không dạy cho trẻ con kỹ năng chia sẻ, học chung, làm việc chung với bạn bè, người xung quanh. Coi trọng cá nhân mình là độc tôn và thể hiện mình, muốn người khác phải biết về mình nên nói về mình, gia đình mình càng nhiều càng tốt.
2. Ở phương Tây: bài bản, không mang tính hình thức, mà tập trung kỹ năng của trẻ và để trẻ tự làm, trẻ luôn biết mình phải làm gì vào ngày học kế tiếp vì có sự dặn dò, ghi chép của Thầy Cô, dạy cho trẻ tư duy và phản biện ( suy nghĩ, nói ý kiến riêng của mình, thắc mắc câu hỏi của Thầy Cô, bạn bè, tự phân biệt và chọn lựa cái gì thích hợp với mình, không chê người khác và lắng nghe ý kiến của người khác). Chỉ học thuộc lòng 1 vài điều nhỏ ( viết chính tả), còn lại là lĩnh hội từ từ do thói quen, do tự học từ người lớn. Chương trình được biên soạn dựa vào khả tâm sinh lý, lứa tuổi cụ thể của trẻ, khi có những trường hợp xấu phát sinh thì Thầy Cô nêu lên trong trường để cùng nhau bàn bạc, tháo gỡ khúc mắc, tập trung phát triển sự sáng tạo của trẻ và giải thích khi cần thiết. Trẻ ngoài giờ học trên lớp không phải học thêm, cuối tuần thoải mái vui chơi, giải trí. Mỗi tháng trường có tổ chức cho trẻ trong trường ( có thể mời phụ huynh) tham gia hoạt động sơn sửa, làm mô hình cho trường, làm project sau khi học sinh đã thống nhất với nhau trong lớp ( vào trường vào sáng chủ nhật và báo trước cho phụ huynh)
- Học Toán đơn giản, cộng trừ nhân chia đơn giản.
- Không có bài văn mẫu, mỗi bài mỗi vẻ, ai cũng được khen ngợi. Trẻ biết về đạo văn, không được copy bài của người khác, người đi trước làm bài của mình
- Các môn đọc hiểu, viết chính tả, bài toán được thực hiện trong lớp và làm ở nhà, có kiểm tra và trong tầm khả năng của trẻ.
- Không có những môn ngoài khả năng của trẻ. Chú trọng dạy trẻ con những kỹ năng cơ bản trong môi trường cộng đồng và kỹ năng sống cho bản thân.
+ Kỹ năng sống trong môi trường cộng đồng : cám ơn chân thành khi người khác làm mình vui, xin lỗi và tránh đụng chạm người khác, lúc nào cũng có chữ “vui lòng”( please) khi nhờ ai giúp, cầu cứu ai làm việc gì cho mình, quan tâm và chia sẻ với người khác; sẵn sàng giúp đỡ người khác khi họ cần; luôn xếp hàng ( first comes, first serves) trong mọi trường hợp; biết quan tâm, động viên bạn bè, người thân khi thấy họ buồn, khóc, đau khổ; biết khen ngợi, khuyến khích, động viên người thân, người xung quanh, người nhỏ hơn mình khi thấy họ đáng yêu “ good boy”, “good girl”; biết bảo vệ người thân, bạn bè; biết góp ý người khác 1 cách gián tiếp, chân thành và không làm tổn thương họ trên tinh thần cùng nhau học hỏi ( I learn from you, and you learn from me), biết nêu ý kiến của mình và giải thích vì sao mình nói vậy, nghĩ vậy, làm vậy; thắc mắc khi người lớn nói mà không hiểu, thắc mắc về những điều xung quanh với Ba Mẹ, bạn bè, yêu thương cây cối, động vật, môi trường xung quanh.
+ Kỹ năng sống cho bản thân: làm người tự giác lo cho mình, không ỷ lại người khác; té thì đứng dậy, đi tiếp; có lỗi thì nhận lỗi và không ai cười chê mình; biết cầm muỗng nĩa, phân biệt tô, ly, chén nào trong bàn ăn, các loại tiệc ( cái này giúp khi ra đời ai cũng như ai, không phân biệt giàu nghèo, lịch sự, quê mùa); biết cầm dao đúng cách, biết thức ăn nào đi với nước chấm gì, biết tự mặc áo quần, biết làm món ăn mà mọi người hay ăn, chọn môn thể thao, âm nhạc, hội họa mình ưa thích; biết về nơi xung quanh mình ở; biết thích nghi với mọi hoàn cảnh ( ở trường, ở nhà bạn, sinh hoạt ngoài trời, đi picnic…)
V. Tuyển giáo viên
1. Ở Việt Nam: giống nhau trên giấy nhưng bên trong có những qui luật bất thành văn mà chỉ có người đi xin việc và người nhận việc mới biết. Không cần biết tiền sử người nộp đơn có vi phạm luật giáo dục ở trường khác, nơi khác không.
2. Ở phương Tây: qui tắc đầu tiên để nộp đơn xin làm giáo viên là phải có đầy đủ bằng cấp đào tạo bài bản do 1 trường đại học cấp bằng, có chứng chỉ đào tạo về dạy trẻ con theo qui định của bang, nước đó; có giấy tờ duyệt của cảnh sát nước đó (Police Check ) là người xin việc không phạm tội, không có hành vi xấu với trẻ con, xin việc volunteer hay trả tiền đều phải có có thẻ “ Làm việc trong môi trường trẻ con” ( Working with children check ). Ở Úc thẻ này có giá trị 5 năm, hết thời hạn phải làm lại và trong thời hạn mà vi phạm gì về luật bảo vệ trẻ em sẽ bị thu hồi thẻ. Tất cả giáo viên phải có kỹ năng giao tiếp tốt và đáp ứng những nhu cầu của trường học đề ra trong môi trường trẻ con.
VI. Dạy trẻ em học ngoại ngữ ở 2 nơi
1. Ở Việt Nam: đa số giáo viên trong các trường là giáo viên Việt Nam. Trình độ, khả năng ngoại ngữ của giáo viên chưa cân bằng giữa vùng, miền, thành thị, nông thôn. Ở nhiều nơi vùng miền xa xôi, ngoại ngữ được học bằng môn thay thế hoặc bắt đầu học ngoại ngữ từ lớp 10 ( hệ 3 năm). Trẻ em ở thành thị có nhu cầu, điều kiện học ngoại ngữ tốt hơn, giao tiếp tốt hơn trẻ em ở nông thôn, miền núi, miền xa. Tình trạng đó gây ra nhữngthái độ, hành vi tâm lý học ngoại ngữ khác nhau ở trẻ:
+ Trẻ em nhà không có điều kiện kinh tế khó khăn hoặc ở môi trường nông thôn, miền núi, miền xa : trẻ có cảm giác sợ học ngoại ngữ, học ngoại ngữ gặp khó khăn, thua sút bạn bè khi ở môi trường đại học, cao đẳng.
+ Trẻ em nhà có điều kiện kinh tế trung bình và ở nơi có môi trường học tiếng Anh bình thường: nói tiếng Việt vững và học ngoại ngữ cố gắng, khi đam mê và yêu thích môn học từ nhỏ thì chính các em sẽ tìm mọi cách học tốt.
+ Trẻ em nhà có điều kiện kinh tế khá giả, nhà ở thành thị, trung tâm: được gửi học trường quốc tế, trường tiếng Anh do người nước ngoài dạy hoặc được gửi học ngoại ngữ từ rất sớm. Nhiều gia đình có tâm lý “sính ngoại”, thích con học ngoại ngữ tốt từ nhỏ nên luôn khuyến khích con nói ngoại ngữ trong trường học, ở nhà lẫn môi trường xung quanh nên có trường hợp trẻ nói giỏi tiếng Anh hơn tiếng Việt, sống trong môi trường Việt Nam mà cứ nghĩ như mình đang ở nước ngoài. Trẻ vào lớp có khi chê Thầy Cô giáo ngoại ngữ người Việt ra mặt, phụ huynh tự hào với người xung quanh là con mình giỏi ngoại ngữ. Nhiều trẻ em học ngoại ngữ được đi học với người nước ngoài thích hơn học với Thầy Cô Việt, luôn muốn nói chuyện với người nước ngoài.
2. Ở phương Tây: vì môi trường đa văn hóa, đa sắc tộc nên các trường học tuyển mời giáo viên dạy ngoại ngữ có gốc nói tiếng mẹ đẻ ngôn ngữ đó ở trường họ. Mỗi trường có ngoại ngữ khác nhau tùy theo cộng đồng dân vùng nào ở nhiều nhất ở vùng có trường học đó. Ví dụ: suburb vùng đó có nhiều dân Ý, Hy Lạp thì ngoại ngữ trong trường là 2 tiếng đó, suburb vùng nào có nhiều người Indonesia, Ả Rập thì trường đó dạy 2 ngoại ngữ đó.
VII. Suy nghĩ của trẻ em ở Việt Nam về việc học tiếng Anh và suy nghĩ của trẻ em gốc Việt ở phương Tây về việc học tiếng Việt
1. Giống nhau: Ở Việt Nam hay phương Tây, trẻ con đều nghịch ngợm, thích làm những gì mà người cùng tuổi, cùng trường đang làm và càng khác người càng tốt; thời công nghệ thông tin và internet phát triển, trẻ con ngày nay đang biến hóa ngôn ngữ viết theo cách riêng của chúng, theo phim ảnh, Internet, youtube, tin nhắn, email … mà nếu người lớn không tìm hiểu thì sẽ không hiểu ngôn ngữ viết của trẻ con bây giờ. Nếu như ở Việt Nam, người lớn , Ba Mẹ, Thầy Cô giáo đang đau đầu với chữ viết tiếng Việt, ngôn ngữ chat, trong bài văn, tin nhắn của trẻ con thì ở phương Tây cũng y hệt vậy, tiếng Anh cũng đang bị biến tấu đủ kiểu. Ngay cả những nhà ngôn ngữ phương Tây cũng không hiểu con họ viết gì khi nhắn tin, email cho họ. Tôi còn nhớ năm 2007 dự hội thảo TESOL tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, 1 nhà ngôn ngữ nổi tiếng kể câu chuyện rằng vợ chồng ông đi dạy ở Thailand và email là phương tiện liên lạc với cậu con trai đang học ở Mỹ. Hai vợ chồng ông hỏi con đủ thứ, lo lắng cho con và viết ngôn ngữ bình thường trong email. Bao nhiêu chờ mong hy vọng cuối cùng đứa con trả lời email bằng 1 ký tự ngắn gọn “k”. Sau đó ông hỏi Ba Mẹ của người bạn mới biết đó là chữ “ok”, có nghĩa là mọi việc đều ổn. Không chỉ trẻ con mà teen, người trên teen và thanh niên dễ tính đều có thể vô thức bắt chước ngôn ngữ biến tấu kiểu này và mất dần ngôn ngữ mẹ đẻ.
2. Khác nhau:
- Ở Việt Nam: Trẻ em nào cũng thích học tiếng Anh vì hầu hết phim hoạt hình vui nhộn sản xuất ở Mỹ, phim Harry Porter… hiện nay đều là ngôn ngữ tiếng Anh, bài hát tiếng Anh dễ thương, các bạn nhỏ nước ngoài cũng hồn nhiên, vô tư như mình. Các em thấy người nước ngoài đi ngoài đường thì thích phong cách của họ, ai cũng yêu con nít và chụp hình ảnh của trẻ con rất tự nhiên, không áp đặt trẻ con phải làm kiểu làm mẫu. Bảng chữ cái tiếng Anh thì nhớ hết ( vì dễ thuộc và học qua bài hát), còn hỏi bảng chữ cái tiếng Việt có bao nhiêu ký tự chưa chắc trả lời được.
- Ở phương Tây: Trẻ em gốc Việt thích học ngoại ngữ trong trường mà chúng cảm thấy chúng có thể cảm thụ tốt, Thầy Cô dạy dễ hiểu, vui nhộn, được luyện tập với bạn bè và không có tính áp đặt, không giải thích. Tôi tình cờ hỏi 1 vài bé học tiếng Việt ở Úc thì các bé nói không thích học tiếng Việt ở trường dạy tiếng Việt ( ở trường và cả ở trường Việt ngữ ngày chủ nhật) và vì thương Ba Mẹ trả tiền, chở đi học nên mới đi học chứ cách dạy không mang lại hứng thú, phải ngồi yên 1 chỗ trong lớp, Thầy Cô nói nhiều, các bé phải lặp lại theo và không hiểu tại sao, Thầy Cô chỉ khen ngợi những bé học giỏi, làm bài tập đầy đủ trong lớp, la rầy hoặc không để ý những bé khác không theo kịp, nên đa số chỉ mong đợi đến giờ ra chơi. Ra chơi thì tất cả trẻ con bu lại và nói tiếng Anh. Khi làm bài tập trong sách tiếng Việt thì có những câu không muốn trả lời vì hỏi cá nhân, riêng tư, trong trường học các em học hằng ngày, không bao giờ hỏi chuyện riêng tư của người ta như thế ( ví dụ: Nhà em ở đâu ? Nhà em có mấy anh chị em ? Cha mẹ em làm nghề gì ? Nhà em có hạnh phúc không ?...) Trẻ em nói học tiếng Việt hiệu quả nhất là từ Ba Mẹ nhưng Ba Mẹ phải đi làm, không có thời gian nói chuyện.
VIII. Người học TESOL tại Úc đến từ Trung Quốc ra trường làm gì ở Úc ?
Đa số SV quốc tế các nước phương Đông, các nước đang phát triển ( Việt Nam, Indonesia, Campuchia, Lào… ) học TESOL để trở về nước dạy tiếng Anh cho học trò nước mình. SV các nước phát triển và sử dụng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ ( Mỹ, Úc, Anh, Canada…) học thêm bằng, chứng chỉ TESOL để đáp ứng tiêu chuẩn về bằng cấp để đi dạy tiếng Anh ở các nước cần họ và các nước đang trả tiền cao cho giáo viên nói tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ ( Nhật, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc). Còn SV Trung Quốc học TESOL, giáo dục tiểu học không phải để trở về nước mà để xin dạy tiếng Hoa ở các trường tiểu học ở Úc, dạy tiếng Hoa ở trong các trung tâm , trường Hoa ngữ ở Úc. Họ đã đi trước tất cả các giáo viên các nước 1 bước ở chỗ họ học cách dạy tiếng Anh để hiểu tâm lý lứa tuổi vừa học văn hóa của phương Tây để biết trẻ con trong trường học ở Úc muốn gì học như thế nào để dạy tiếng Hoa cho hiệu quả và trẻ con luôn thích học tiếng Hoa. Tài liệu học TESOL trong lớp các sinh viên quốc tế phải đọc bằng tiếng Anh để làm bài , SV Trung Quốc đọc tài liệu tương tự bằng tiếng Hoa ( người đi trước đã dịch tiếng Anh ra thành tiếng Hoa hầu như tất cả các cuốn sách về phương pháp giảng dạy tiếng Anh ...) và khi tranh luận với lớp, họ đọc tài liệu bằng tiếng Hoa và dịch ra tiếng Anh.
Vậy thì đâu là nguyên nhân làm mai một tiếng Việt ? Có phải chính suy nghĩ và cách làm của người lớn là nguyên nhân làm mai một tiếng Việt chứ trẻ em thì rất vô tư ?
Trao đổi: Trường Đại học Cần Thơ-Những chặng đường đổi mới &...
Trao đổi: Trường Đại học Cần Thơ-Những chặng đường đổi mới &...: "Cần Thơ, Ngày 1 tháng 6 năm 2011 Một số bạn đã gợi ý tôi chia sẻ bài báo cáo của tôi tại Hội thảo Đào tạo nguồn nhân lực đại học ngày 2..."
Sức thu hút từ lãnh đạo
Có một người Thầy giáo gương mẫu, một tấm gương nhân cách, là biểu tượng của trang sử mới, thời kỳ mới của trường Đại học Cần Thơ mà có lẽ người đời không phải ai cũng biết. Tôi xin viết để giới thiệu về người Thầy Giáo đáng kính này.
Đó là năm 1989, khi lần đầu tiên và duy nhất Bộ giáo dục tổ chức bầu cử dân chủ hiệu trưởng các trường đại học. Tất cả các anh, chị, bạn, em thế hệ tôi ( 7x, 8x) là con của giáo viên, công nhân viên công tác tại trường và sống ở tập thể khu 1 lúc đó không hề có khái niệm về chuyện người lớn làm và tại sao. Danh sách 3 ứng cử viên được dán trước khu 1, khu 2, có hình, có tiểu sử, trình độ văn hóa, nơi tốt nghiệp tiến sĩ… Bọn con nít thế hệ tôi lúc đó cũng tò mò lại xem, cũng chỉ trỏ nhưng không có khái niệm sẽ chọn ai. Giáo viên, công nhân viên, sinh viên bầu cử, tôi nghe các chú bác, thầy cô, Ba Mẹ ở khu tập thể bàn tán xôn xao lắm, tôi thấy y như bầu cử tổng thống Mỹ thời nay. Rồi người được cả trường bầu chọn với số phiếu cao nhất chính là người lãnh đạo ở mãi trong tim tôi vì đó là người có tâm, có thực tài, ở mọi góc nhìn Đông- Tây, truyền thống Việt Nam đều kính trọng, ngưỡng mộ. Người lãnh đạo đó là bác Trần Phước Đường. Khi biết tin người trúng cử chính là người mình bỏ phiếu, Ba tôi về reo hò, chờ đợi, hy vọng, quan sát. Những Thầy, chú khác xung quanh cũng có tâm trạng tương tự, người vui như Ba tôi, người buồn so. Mới đây, tôi hỏi Ba tôi hồi xưa vì lý do gì mà chọn bác Đường, Ba tôi nói vì bác hiệu trưởng trước “xúi”
Tôi còn nhớ rất rõ sau khi bác Đường làm hiệu trưởng thì 2 bác không trúng cử hiệu trưởng năm đó làm hiệu phó. Nhà bác Đường ở dãy tập thể cũng giống như nhà tôi mà là dãy đối diện. Nhà một bác hiệu phó ở tầng trên.
Chúng tôi biết hết về gia đình, con cái của các bác Hiệu trưởng, Hiệu phó thông qua câu chuyện, nghe lóm từ những người xung quanh hoặc tận mắt tôi chứng kiến. Mẹ tôi và những bà Mẹ khác trong khu tập thể rất trân trọng vợ bác Đường vì khi mọi người khổ, vợ bác cũng rất khổ, có 1 thời khó khăn ( thời bao cấp) vợ bác chặt củi, tắm heo, lo cho chồng, nuôi 4 người con, trong trường không ai là không biết. Mẹ tôi nói vợ bác lớn tuổi hơn nhưng bác không khai nhỏ hơn hay bằng tuổi, không sợ thiên hạ dèm pha như những vị khác. Vì cảm thông cho hoàn cảnh của bác, vợ bác mà các bà Mẹ dạy con gái không qua lại với người đàn ông có vợ vì sẽ phá hạnh phúc của nhà người ta. Ba tôi nói Ba tôi phục bác Đường vì bác không gửi bất cứ đứa con nào đi học nước ngoài như những người khác. Lâu lâu tôi cũng nghe Ba tôi kể con trai bác ấy cũng trách bác ấy với người trong trường như bài hát “ Father and son”. Trong thời gian đó, mọi người trong khu tập thể đều để ý các con bác học ngành gì, không nhờ “bóng” cha, với tình cảm của con cái thì yêu ai gả đó, cưới đó không ép con phải môn đăng hộ đối, đám cưới thì không mời cả trường ( dù lúc đó bác mời chắc người ta cũng đi vì kính mến chứ không phải vì sợ). Sống đến thời buổi này, tôi mới thấy khi người ta quan sát người lãnh đạo, người ta sẽ nhìn ở khía cạnh người đó có tư lợi, vụ lợi, ỷ quyền cậy thế vun vén cho gia đình riêng của mình không. Nếu có thì người ta không phục và không theo.
Là người lãnh đạo ở gần nhân viên, tận mục sở thị cuộc sống xung quanh, lắng nghe quan sát nhân viên mình thì sẽ biết họ cần gì, muốn gì. Tôi nhớ đó là năm mà tôi nhận thấy sự biến đổi rõ rệt trong khu 1 và khu 2, đường xá trong cả 2 khu trước đó có những chỗ lồi, chỗ lõm, bọn con nít thường hay lấy cây vọc nước để nhìn những vệt nước nhiều màu do xăng của xe ô tô trường chạy qua để lại. Khi bác Đường làm hiệu trưởng thì đường xá ở 2 khu được tráng nhựa, sau đó thì còn có bảng chỉ cây số trên giờ ( 5km/h, 15 km/ h) như là ở ngoài đường vậy, có đường đắp cao lên 1 chút để giảm tốc độ, có nơi đổ rác sạch sẽ, thuận tiện chung cho từng dãy nhà, vệ sinh xung quanh đàng hoàng, chỉnh chu, cống nạo vét sạch sẽ, cây cối xanh tươi, mỗi Thầy cô, công nhân viên trong trường tham gia trồng 1 cây bàng trong khu 1, hàng rào trước dãy nhà sole là những hàng bông, tỉa cắt đàng hoàng, chúng tôi hay đu những cây ca cao, lượm trái dương chọi nhau, leo cây trứng cá, chơi đủ trò con trẻ ( cò chẹp, nhảy dây, chơi keo, đoàn tàu, táng u, thả diều, đá banh, cầu lông, bắn bi, đá dế than, dế lửa, đổ dế cơm, nhà chòi, đá cọc và cả leo cây…) con trai chơi trò gì con gái cũng chơi trò đó, trước sân nhà mấy khu tập thể và 2 sân bóng, nhưng mỗi lần gặp người lớn từ xa là chạy trốn, tụt xuống khoanh tay chào và đợi người lớn đi khỏi thì chơi tiếp
Tôi rất hào hứng kể với bạn bè học chung về 1 thời của tôi trong khu 1, ai cũng thích thú và nhớ những câu chuyện đó. Tôi còn nhớ tôi đi học ngoại ngữ ở khu 2 mỗi tối, một ngày nọ tôi nghe Ba tôi hỏi có biết vụ 1 chú say rượu đón con đi học về rồi bị té xe. Thế là sau lần đó bác Đường cho san bằng những chỗ giảm tốc độ đó. Sau này học tiếng Anh, tôi mới biết đó là “learn from mistake”, biết sai thì sửa liền để giảm tai họa về sau. Tôi nhớ hồi tôi mới qua Úc học không lâu ( cuối tháng 1/2009), có vụ 1 người đàn ông đã quăng cô con gái nhỏ từ trên cầu West Gate, Melbourne xuống, người Úc căm phẫn, báo chí đưa tin lên án người đàn ông bất nhân và chính phủ Úc cho sửa ngay thành cầu 2 bên làm cao lên để không ai có thể dừng lại và tái phạm, bắt chước vô thức như người đàn ông kia. Xung quanh những dãy nhà cao cẳng là những cái ao nước, có hàng cây xoài, cây phượng già, ao mương được nạo vét, xung quanh được quét dọn sạch sẽ. Người ta hay nói vị nào trở thành hiệu trưởng trường thì khoa ấy sẽ lên hương, sẽ được xây dựng đẹp. Thời bác Đường là Khoa Khoa học ( bây giờ là khoa Khoa học tự nhiên), phòng lớp chỉ có 2 tầng, vững chắc, phong thủy chuẩn, không gian khoáng đạt, cây cối xanh tươi, liễu rũ mặt hồ sen. Hôm qua tôi mới hỏi 1 lớp tôi dạy gồm sinh viên tất cả các ngành “ khoa nào đẹp nhất”. Các em đều nói “ Khoa khoa học tự nhiên”. Lý do là thiên nhiên đẹp, cây cối xanh mát, phòng học mát mà không cần mở quạt, không có cảm giác ngợp thở, bức bối, phong thủy hài hòa, phòng ốc bố trí hài hòa gần gũi, không ồn ào. Tôi hoàn toàn đồng ý, hồi đó tôi đi học tôi cũng thích khoa này, ở lại dạy tôi nhớ tôi toàn đăng ký gác thi tuyển sinh ở Khoa Khoa học, không hiểu sao tôi lại thích như thế và bây giờ đi Đông đi Tây về, tôi vẫn chỉ thích nhất là Khoa khoa học ( phong cách Việt Nam và xây dựng vững chãi kiên cố như Tây) của trường Đại học Cần Thơ.
Thời bác Đường làm hiệu trưởng là những năm tháng Thầy Cô giáo, công nhân viên không phải lo toan về tiền bạc, đồng lương đủ sống và đời sống tinh thần phong phú ( thể dục thể thao, văn nghệ, văn hóa, du lịch), cách ăn mặc chỉnh chu, giao tiếp nhân bản, đầy tình người. Khu 1 có hai sân lớn chung, 1 sân trên ( xóm trên) là sân bóng chuyền, 1 sân ( xóm dưới) là sân bóng rổ, bác Đường cũng cho sơn sửa đàng hoàng, không làm sân nào cho 1 nhóm người nào mà dành cho mọi người. Chiều chiều con nít mọi nhà, người lớn có thể ra chơi thoải mái trên các sân. Lâu lâu chiếu phim ở sân xóm dưới, từ người lớn đến con nít đều xách chiếu, báo đi coi, phim được chọn lọc, không có cảnh làm tình, đánh nhau, chém giết hỗn loạn. Một năm tôi thấy tổ chức thi bóng chuyền trong khu 1 cho người lớn, cầu lông cho trẻ con, bóng đá trong khu 2 hết sức sôi động. Người lớn thi thố thì trẻ con la hét ủng hộ khích lệ động viên, trẻ con thi thì người lớn đứng xung quanh khích lệ tinh thần. Ban giám hiệu lúc đó đề xướng các hoạt động và tham gia cũng hết mình. Trên sân đấu không còn khoảng cách giữa lãnh đạo và nhân viên. Những đứa như bọn tôi thích cô chú, người quen nào thì ủng hộ đội đó vô tư. Mỗi năm ngoài kỳ thi văn nghệ cho sinh viên còn có kỳ biểu diễn văn nghệ dành cho giáo viên, các khoa, phòng ban luyện tập sôi nổi và đi coi khoa khác biểu diễn, đi ủng hộ khoa mình thi rất đông vui. Thầy Cô, nhân viên trong trường thi thố đàn, hát, múa, ngâm thơ, trẻ con thì ngồi xem, chạy ra chạy vào bắt dế, chơi năm mười xung quanh hội trường. Đó là thời gian mà cả bác hiệu trưởng và bác hiệu phó mời được những đoàn văn công văn nghệ nổi tiếng trong nước, những đoàn sinh viên nước ngoài ( Anh, Mỹ, Canada) về giao lưu văn hóa văn nghệ rất sôi nổi. Tôi không chơi được các nhạc cụ như những đoàn văn công trong nước, tôi chưa nghe hiểu được những gì anh chị sinh viên nước ngoài đó nói, hát gì nhưng tôi mơ ước là có ngày tôi sẽ được như họ, có thể đàn hát, được mặc đồ đẹp, hồn nhiên. Người lớn ai ai cũng vào đi xem đúng giờ trước giờ khai mạc, trình diễn, lắng nghe giới thiệu chương trình rồi thưởng thức đến cuối buổi, xem ban giám hiệu lên sân khấu phát biểu cám ơn, tặng hoa, ôm hôn chúc mừng buổi biểu diễn thành công mới về. Lãnh đạo ngồi xem đến cuối buổi thì không nhân viên nào bỏ về nữa chừng. Điều đó cũng tạo nên một nét văn hóa đẹp trong cách cư xử với khách, trước sau như một. Có một lần Ba tôi đố tôi “ Tại sao lên sân khấu thì mặc quần Tây chứ không mặc quần jeans ?”. Rồi Ba tôi giải thích là bác hiệu trưởng nói với mọi người biết quần jeans ở nước ngoài là quần dành cho cao bồi - người chăn bò, ngựa ( cowboy) nên lên sân khấu mặc quần jeans là không tôn trọng người khác. Bây giờ thử để ý, tôi thấy những chú bác thời Ba tôi đi làm, lên lớp, đi họp, đi lễ tiệc không có bộ comple, cà vạt nhưng không bao giờ mặc quần jeans, đặc biệt là lên sân khấu, mà áo sơ mi bỏ trong quần tây. Các cô, các bác và Mẹ tôi trong khu 1 không biết trang điểm, chỉ để da mặt tự nhiên nhưng mịn màng, ăn mặc giản dị chứ không được áo đầm như Tây, không ai nhuộm tóc xanh đỏ tím vàng, khi ra đường là thay đồ chứ không mặc đồ bộ, đồ ngủ. Là thời kỳ mà hội trường Rùa chỉ được sử dụng để biểu diễn văn hóa, văn nghệ và tổ chức cuộc thi đàn Organ của trẻ em, hội họp của trường đại học Cần Thơ và thành phố Cần Thơ. Không hoạt động quảng cáo, kinh doanh nào được phép mượn, thuê. Mỗi hè, gia đình công nhân viên trong trường được đăng ký, thay nhau đi du lịch ( Đà Lạt, Nha Trang, Vũng Tàu, Phan Thiết, Huế, Hà Nội…). Từ những lần đi tham quan đó mà bọn con nít như tôi được biết phong cảnh đất nước mình đẹp, mỗi nơi, mỗi vùng có nét đẹp khác nhau, mỗi nơi nổi tiếng về cái gì, món ăn gì, khác Cần Thơ điểm gì.
Năm tháng trôi qua thời nhiệm kỳ của bác Đường, tôi nhớ đó là thời kỳ nhà tôi không than thở về vật chất, cơm áo gạo tiền và nhà tôi hạnh phúc, Ba tôi có nhiều điều vui để kể, Mẹ tôi ít nhăn nhó tiền bạc, chúng tôi không học tập căng thẳng, được phát huy sở trường của mỗi đứa ( thể thao, ca hát, múa, thể dục nhịp điệu, đánh đàn, đánh trống…) và có một môi trường thiên nhiên thật lý tưởng trong khu 1 đó.
Chúng tôi được lớn lên trong 1 môi trường được phát triển hài hòa về nhân cách, tự nhiên thoải mái về tinh thần đến nỗi giờ ở những phương trời khác nhau, chúng tôi đều vẫn nhớ về 1 thời hồn nhiên, thoải mái, vô tư ấy như nó mới chỉ đâu đây ngày hôm qua. Các Thầy Cô giáo, Ba Mẹ tôi trong khu tập thể không phải lo lắng con hư, chúng tôi không chửi thề ( vì xung quanh người lớn không chửi hoặc không chửi trước mặt con cái ), mỗi ngày Ba Mẹ chúng tôi cứ việc giao chìa khóa rồi đi làm, đứa nào cũng biết nấu cơm, làm những công việc nhà Ba Mẹ đã hướng dẫn 1 cách tự giác. Chúng tôi biết sống trong một môi trường vì người khác, ăn nói nhỏ nhẹ, lễ phép và khi ai có hoạn nạn thì đều giúp nhau. Chúng tôi biết Ba Mẹ mỗi đứa đi dạy hay đi làm, làm việc ở khoa nào, dạy môn gì, làm công nhân viên phục vụ, trồng cây, bảo vệ, tài xế lái xe… trong trường nhưng không bao giờ so sánh nhau, chúng tôi chơi vui với nhau hết sức chân thành. Người lớn đánh giá con nít xung quanh là có ngoan không, học giỏi không chứ không đánh giá là Ba Mẹ làm chức phận gì trong trường. Ba tôi luôn cười vui vẻ nói với mọi người là Ba tôi làm cu li ( sửa điện, nước), Mẹ tôi làm y sĩ ở phòng y tế trong trường, nhưng chưa bao giờ các anh chị, bạn bè trong khu ấy làm tổn thương tôi, tôi cũng không tự ti về nghề của Ba Mẹ mình. Hai chị em tôi luôn được mặc đồ đẹp, tươm tất. Ba Mẹ tôi không tạo cho tôi áp lực là phải học giỏi, cũng không chọn trường điểm gì, đa số đều học gần nhà và nếu học trường chuyên là tự con cái chọn chứ người lớn không ép. Bây giờ tôi nghĩ lại mới thấy, trường học giỏi và trẻ con được phát triển toàn diện nhất không phải là trường điểm, ở trung tâm thành phố, mà là trường có con em của các thầy cô đại học học ở đó. Các anh chị đi trước trong khu tập thể là tấm gương cho đàn em đi sau, ai học giỏi, thi đậu mấy trường đại học đều là tấm gương cho con nít cả trường và ở ngoài trường, cứ thế mà trong đám trẻ con có làn sóng cạnh tranh ngầm, tự chủ tự giác, Ba Mẹ không nhắc cũng tự học.
Không cùng làm việc với nhân viên, đồng nghiệp, quan sát, lắng nghe thì không thể biết họ cần gì, muốn gì. Nơi làm việc, nghiên cứu của bác Đường là 1 phòng ở dãy nhà sole cũng trong khu tập thể đó, bác hiệu phó cũng có 1 nơi làm việc tương tự ở gần đó. Xen kẽ với dãy nhà đó là các chuyên gia nước ngoài đến từ nhiều nước, già có, trẻ có, ai cũng vui vẻ, dễ thương. Chúng tôi có dịp luyện tập tiếng Anh, Pháp với người nước ngoài và kết bạn với con của họ. Tôi thấy người nước ngoài sáng sáng hoặc tối tối chạy bộ vòng quanh khu 1 nên bọn con nít cũng bắt chước theo. Ở phía bên ngoài là phòng nhà khách số 1 cho khách công tác trong nước, phòng tài vụ, khu hiệu bộ của ban giám hiệu, phòng hợp tác quốc tế, phòng công đoàn, dãy nhà khách cho giáo sư, chuyên gia thỉnh giảng. Mọi người làm việc nhịp nhàng, gắn kết, việc ai nấy làm và tin tưởng nhau. Lâu lâu Ba Mẹ tôi có việc liên quan giấy tờ, dẫn tôi đi vào các phòng đó, giới thiệu tôi biết các bác, cô chú, ai cũng đối xử vui vẻ, khen tôi ngoan khi tôi khoanh tay chào và tôi thích môi trường ngăn nắp, qui cũ trong các phòng làm việc đó.
Khi tôi ở lại trường đi dạy, Thầy Cô bộ môn tôi cũng thường hay hoài niệm, nhắc về 1 thời “hoàng kim” khi bác Đường làm hiệu trưởng, là thời lương bổng công minh, làm theo năng lực và công sức, hưởng theo năng lực và thành quả, cơ sở vật chất không được tân tiến như nước ngoài nhưng ai cũng yên tâm giảng dạy, phát triển chuyên môn, quan tâm lẫn nhau. Thầy Cô có 1 câu nói rất tiếu lâm mà thực tế nên tôi nhớ hoài “ Muốn biết đời sống nhân viên thời đó có khá không, đủ ăn không thì mở toilet sẽ biết, thời nào đủ ăn thì toilet nhà đó đầy, thời nào đói thì toilet nhà đó rỗng”. Nói về cái toilet tôi mới nhớ, Ba tôi làm điện nước, đi gắn sửa toilet trong khu hiệu bộ, nhà các bác trong khu 1 đi Tây về và Ba tôi cũng áp dụng cái đó cho nhà tôi. Ba tôi nói toilet không cần bóng loáng, sang trọng nhưng phải giữ gìn sạch sẽ, người ta vào nhà mình, nhìn toilet nhà mình là đã biết văn hóa, cách ăn ở nhà mình. Ba tôi nói đó là bác hiệu trưởng, hiệu phó đã nói với Ba tôi vậy. Sau đó tôi đi đâu, tôi cũng nhìn vô toilet
Tôi qua Úc tôi cũng nhìn toilet của nhà tôi share, trường tôi học, nhà bạn bè tôi, nhà bạn trai tôi, nơi công cộng mà tôi ghé qua đều sạch sẽ, nơi nào có văn hóa, dân trí cao có thể nhìn từ cái toilet sạch sẽ, đàng hoàng. Còn nữa, mỗi lần Ba tôi đi sửa, giúp gì cho nhà bác Đường về nhà là Ba tôi ăn ngon, hào hứng khoe với Mẹ con tôi là Ba tôi được bác ấy, một giáo sư đại học gọi là Thầy. Ba tôi nói bác ấy nói thật tâm, thật lòng chứ không nịnh để Ba tôi làm được việc, bác ấy còn nói với Ba tôi là mỗi người làm tốt trong lĩnh vực của họ đều là người Thầy chứ không phải người có chức danh giáo sư, tiến sĩ mới là người Thầy. Từ tận đáy lòng của mỗi người, tiền bạc không đem lại hạnh phúc, mỗi người sẽ hạnh phúc khi mình được nhìn nhận, tôn trọng, tôi đặt mình vào vị trí của Ba tôi, tôi thấy bác Đường thật là đắc nhân tâm. Ai cũng chỉ cần cơm đủ ăn ngày ba bữa, có việc làm ổn định, được chăm lo về đời sống tinh thần, an toàn, an ninh và cái quý nhất là con người được nhìn nhận, được tôn trọng trong xã hội mình sống dù có làm nghề gì, không làm tổn hại ai, không làm người ta mất mặt trước đám đông,không vi phạm pháp luật.
Bác Đường là người có công gầy dựng trung tâm ngoại ngữ của trường Đại học Cần Thơ, đưa bộ giáo trình tiếng Anh Interaction, Mosaic của Mỹ đủ kỹ năng về dạy ở trung tâm ngoại ngữ và chuyên ngành tiếng Anh ở trường, thỉnh mời được giáo sư Mỹ về hướng dẫn cho giáo viên cách dạy và dạy cho cả sinh viên chuyên ngành. Người người, nhà nhà những năm 90s lúc ấy đi học tiếng Anh buổi tối một cách bài bản. Thầy Cô lúc đó ai học bài bản thì đều có thể đi nước ngoài học mà không sợ rào cản ngôn ngữ. Tôi mới phát hiện em nào mà học được bộ giáo trình này thì qua Mỹ học sẽ không thua ai. Đó là 1 giai đoạn mà Ba tôi cứ hay nhắc tôi “ học ngoại ngữ tới đâu rồi ?” và tôi xin tiền đi mua áo quần không cho nhưng xin tiền đi học ngoại ngữ là có bao nhiêu Ba tôi cũng lo đủ. Sinh viên chuyên ngành tiếng Anh cũng học ngành đó, cho đến giờ tôi mới nhận ra, tôi vững các kỹ năng là nhờ tôi được học bài bản từ bộ giáo trình đó từ hồi đại học, rồi từ từ khi tôi tự tin thì tự nhiên tôi sẽ phát huy. Khi còn là sinh viên qua lời kể của 1 người Thầy, tôi luôn ngưỡng mộ một anh, một thế hệ sinh viên được học với giáo sư Mỹ ở đại học Cần Thơ có đủ năng lực và trình độ được tuyển làm ở đại sứ quán Mỹ ở thành phố Hồ Chí Minh. Tôi cũng đã từng mơ ước như thế, muốn khuyến khích học trò như thế, rằng phải biết hy vọng, ước mơ, học tiếng Anh không đơn thuần là học 1 ngoại ngữ mà là học văn hóa, cách ứng xử, biết so sánh để tìm cái hay cái đẹp học hỏi nhưng không quên nét thuần Việt của mình và có thể mơ ước được làm việc cho đại sứ quán, tổng lãnh sự nói tiếng Anh ở Việt Nam.
Bản thân tôi nhớ rõ bác Đường một lần đã gián tiếp cứu mạng sống của tôi. Đó là năm 1996 ( tôi mới vào lớp 11) là nhiệm kỳ 2 của bác Đường, 1 lần Mẹ tôi phát hiện tôi nổi đỏ đầy người, các vết không lặn khi ấn tay vào và đó không phải do dị ứng. Mẹ tôi dẫn tôi đi xét nghiệm máu ở bệnh viện đa khoa Cần Thơ và cả nhà tôi bàng hoàng vì tôi bị xuất huyết giảm tiểu cầu sắp xuất huyết não không biết nguyên nhân và có thể chết nếu không cứu kịp trong ngày. Mẹ tôi khóc tuyệt vọng, các bác, cô chú trong trường và nhà khách khu 1 động viên Ba Mẹ tôi và nói sẽ xin 1 xe cho tôi lên thành phố Hồ Chí Minh cấp cứu và truyền tiểu cầu liền. May mắn cho tôi lúc đó 1 giáo sư thỉnh giảng từ trường đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh vừa dạy xong và đến giờ trở về, giáo sư ấy cũng là Thầy của Mẹ tôi nhưng Thầy trò gặp nhau trong 1 trường hợp hết sức bất đắc dĩ. Giáo sư đó không ăn cơm trưa tại nhà khách nữa mà hối chú tài xế của trường chở tôi đi ngay. Lên trung tâm huyết học và truyền máu quận 5, giáo sư xuống xe dẫn Mẹ con tôi vào gửi ông giám đốc bệnh viện và không quên nói “ Anh ráng giúp cháu, Ba Mẹ cháu làm nhân viên công tác ở trường Đại học Cần Thơ”. Tôi được cứu sống trong gang tấc. Cả nhà tôi luôn thấy số tôi may mắn, các bác cô chú ở phòng khách ở trường đại học Cần Thơ năm xưa đã tiếp 1 tay 1 sức. Nếu lúc ấy bác Đường không điều hành tốt, các khoa ngành không thỉnh giảng những giáo sư giỏi, tâm huyết, không sắp xếp điều hành rước người đến nơi, đưa người về đến chốn như thế thì liệu tôi có cơ may được ưu tiên, được cấp cứu và sống sót đến ngày hôm nay.
Nói về sự sống, chết tôi cũng thấy rõ trong khu 1 trường thời bác Đường. Mọi người quan tâm nhau rất tình người, khi bất cứ ai công tác trong trường, đã về hưu ở nhà trong hay ngoài khu tập thể, gia đình người nhà đang sống trong khu 1, khu 2 mất thì ở bảng thông báo trường đều có tin buồn, lịch viếng thăm, qui định mặc đồ, ngày giờ địa điểm tập trung để có xe trường đi đưa rước. Từ nhỏ đến lớn, không ít người ở thế hệ của tôi ( 7X, 8X) đã chứng kiến đám ma hoặc đi thắp nhang cho người đã khuất trong khu 1, người cao tuổi, thanh niên, người trẻ đều có. Tôi thấy không khí u buồn, trầm lắng, mọi người lịch sự, trầm lắng như trong đám ma ở nước Úc mà tôi chứng kiến. Tôi cũng nghe đọc điếu văn và nghe tiếng sụt sịt khi trong điếu văn có nhắc đến những gì người đã khuất đã làm và người còn sống vẫn còn nhớ. Thế hệ tôi biết thế nào mất mát của người xung quanh, bạn bè, đồng nghiệp vì được Ba Mẹ chở đi viếng thăm đám ma, thắp nhang những người từng gặp hằng ngày và theo xe trường ra nghĩa trang. Mọi người đều chờ đợi đến khi mọi việc kết thúc và ra về, ít ai quan tâm đến công việc, chậm trễ kinh doanh mà ai cũng nghĩ “ nghĩa tử là nghĩa tận”. Cũng như bao đứa con nít, tôi thường nghe kể chuyện ma và sợ ma nhưng khi đứng trước huyệt mộ, thấy người lớn khóc, tôi cũng lặng lẽ rơi nước mắt, không phải vì tôi bắt chước mà tôi thấy sau khi mỗi người bỏ 1 nắm đất, nắm cát xuống huyệt, rồi người ta lấp cát lên là lúc tôi hiểu người ta sẽ ở luôn dưới đó và tôi không còn gặp mặt được nữa.
Khi bác Đường hết nhiệm kỳ, ra đường ai gặp cũng cúi đầu chào thành kính và hay nhắc về Thầy Đường. Mọi người nhớ về 1 thời qui cũ nề nếp, ai nghiên cứu tốt, làm việc tốt thì lương cao, ai cũng đủ sống, đời sống văn hóa tinh thần được phát triển khi bác làm hiệu trưởng. Bác vẫn công tác tại trường, vẫn quan sát và có ý kiến những điều không hay, không đẹp, trái thuần phong mỹ tục Việt Nam với Ban giám hiệu đương nhiệm. Tôi nhớ khi tôi học đại học, Ba tôi có về kể tôi nghe những chuyện bác gửi đơn kiến nghị trường không cho treo băng rôn quảng cáo băng vệ sinh Kotex khi họ tài trợ cuộc thi người mẫu học đường học sinh phổ thông và mượn hội trường Rùa của trường để tổ chức. Ba con tôi hoàn toàn nhất trí, cái gì là chuyện vệ sinh, kín đáo mà trương lên trong trường đại học thì còn gì là thuần phong, mỹ tục người Việt, dạy dỗ nghiên cứu ai. Ở Úc là xứ tự do, khi treo quảng cáo viagra cho đàn ông, người ta cũng lên tiếng, bàn cãi rồi cũng treo ở chỗ thật cao, ở xa lộ, không gần trường học. tránh xa tầm mắt trẻ con. Thầy Cô tôi ở Úc nói trường học không thể là nơi quảng cáo chuyện riêng tư, ai có làm thì dán thông báo nhỏ ở cột, bệnh viện không treo pano áp phích giới thiệu thuốc vì những điều đó là biểu hiện của quảng cáo và làm người học, người bệnh tin, làm theo. Rồi chuyện Ba tôi kể bác Đường gửi thư không đồng ý cho bán quán café ở trung tâm học liệu với ban giám hiệu. Ba tôi và tôi nói chuyện với nhau, rồi thấy đúng, nơi giảng đường nghiên cứu học tập, bộ mặt của trường thì không thể có cảnh quán café người phì phèo thuốc, người gác chân lên ghế, cười giỡn như ngoài chợ được. Mới đây tôi cũng biết bác đã gửi đơn kiến nghị cảnh sát giao thông gỡ những pano, áp phích giáo dục luật giao thông ở khu 2. Bao nhiêu chuyện mà tôi tai nghe, mắt thấy đó làm tôi nể phục, quý trọng bác Đường, một người lãnh đạo có tầm nhìn và có cái tâm chuẩn mực văn hóa Việt Nam. Sống cùng với nhân viên, làm việc với nhân viên, lắng nghe nhân viên, truyền đạt những gì mới mẻ cho nhân viên rất thuyết phục, có tình có lý, không vụ lợi gì gia đình. Người ta không nghe những gì lãnh đạo nói, hứa, dạy bảo giáo điều, người ta chỉ nhìn những gì lãnh đạo làm, thực hiện có trước sau như một không, người ta có được nhìn nhận, tôn trọng, thanh thản, tâm an không.
Bây giờ ở tuổi này, chưa già nhưng cũng không còn teen, đúc kết những gì tôi thấy, so sánh ở trường học và trường đời, ở Việt Nam và ở phương Tây thì bác Đường xứng đáng là người lãnh đạo toàn tài, nhân nghĩa và ảnh hưởng lớn đến cách nhìn, cách sống của những ai đã biết, làm việc với bác. Đối với mọi người trải qua thời bác, vàng bạc chắc chắn không làm họ hạnh phúc mà họ hạnh phúc khi được phát triển đầy đủ về thể chất ( phần con) , thanh thản bình yên ở tâm hồn ( phần người). Ở gia đình tôi, Ba Mẹ tôi vẫn nhắc về với lòng thành kính, biết ơn và trân trọng; Thầy Cô đồng nghiệp tôi vẫn còn hồi tưởng và khen ngợi, những đứa trẻ con ở thế hệ tôi không sợ khó khăn, không coi trọng đồng tiền mà trọng nhân nghĩa, học trò tôi cũng biết về bác qua chuyện kể của những Thầy Cô khác của họ. Trong 1 trường đại học mà khi hỏi từ giáo sư nghiên cứu, người làm việc chung đến tài xế, người gác cổng, người làm culi như Ba tôi mà ai cũng khen, gặp lại bác ở ngoài đường người ta ngả nón mũ, cúi chào thì chắc hẳn bác Đường chính là người đã đem đến niềm vui, hạnh phúc và ở mãi trong lòng họ. Có 1 người bạn cùng tuổi của tôi đã viết “Có những người mà nếu nhìn lại không ai có thể phủ nhận những thành quả mà họ đã làm được cho cộng đồng của họ, cái tâm và tài năng của họ có sức ảnh hưởng và lan truyền không chỉ là ở một thế hệ, nhưng tiếc là không ai 'viết' về họ cả, đương nhiên là những người như vậy, họ sống vì người khác nhiều hơn bản thân họ nên họ không bận tâm đến việc ai viết về họ, ca ngợi hay ghi nhận họ, nhưng N nghĩ con cháu đời sau cần biết là có một con người như thế.” Và hôm nay tôi chỉ xin chia sẻ với những anh chị em thế hệ tôi, đã từng 1 thời lớn lên ở đại học khu 1, bạn bè tôi, học trò tôi là ở Cần Thơ đã có 1 người lãnh đạo mẫu mực, có tâm có tầm và biết học hỏi cái hay cái đẹp từ phương Tây để áp dụng nhưng vẫn giữ đúng thuần phong mỹ tục Việt Nam như thế.
@ Mai Đinh
Những đứa trẻ con chúng tôi ( thế hệ 7X, 8X) được đi tham quan ở Cao Lãnh, Đồng Tháp vào mùa hè 06/1990


Gia đình giáo viên, công nhân viên trường Đại học Cần Thơ đi tham quan Đà Lạt hè tháng 06/1991

Đó là năm 1989, khi lần đầu tiên và duy nhất Bộ giáo dục tổ chức bầu cử dân chủ hiệu trưởng các trường đại học. Tất cả các anh, chị, bạn, em thế hệ tôi ( 7x, 8x) là con của giáo viên, công nhân viên công tác tại trường và sống ở tập thể khu 1 lúc đó không hề có khái niệm về chuyện người lớn làm và tại sao. Danh sách 3 ứng cử viên được dán trước khu 1, khu 2, có hình, có tiểu sử, trình độ văn hóa, nơi tốt nghiệp tiến sĩ… Bọn con nít thế hệ tôi lúc đó cũng tò mò lại xem, cũng chỉ trỏ nhưng không có khái niệm sẽ chọn ai. Giáo viên, công nhân viên, sinh viên bầu cử, tôi nghe các chú bác, thầy cô, Ba Mẹ ở khu tập thể bàn tán xôn xao lắm, tôi thấy y như bầu cử tổng thống Mỹ thời nay. Rồi người được cả trường bầu chọn với số phiếu cao nhất chính là người lãnh đạo ở mãi trong tim tôi vì đó là người có tâm, có thực tài, ở mọi góc nhìn Đông- Tây, truyền thống Việt Nam đều kính trọng, ngưỡng mộ. Người lãnh đạo đó là bác Trần Phước Đường. Khi biết tin người trúng cử chính là người mình bỏ phiếu, Ba tôi về reo hò, chờ đợi, hy vọng, quan sát. Những Thầy, chú khác xung quanh cũng có tâm trạng tương tự, người vui như Ba tôi, người buồn so. Mới đây, tôi hỏi Ba tôi hồi xưa vì lý do gì mà chọn bác Đường, Ba tôi nói vì bác hiệu trưởng trước “xúi”

Tôi còn nhớ rất rõ sau khi bác Đường làm hiệu trưởng thì 2 bác không trúng cử hiệu trưởng năm đó làm hiệu phó. Nhà bác Đường ở dãy tập thể cũng giống như nhà tôi mà là dãy đối diện. Nhà một bác hiệu phó ở tầng trên.
Chúng tôi biết hết về gia đình, con cái của các bác Hiệu trưởng, Hiệu phó thông qua câu chuyện, nghe lóm từ những người xung quanh hoặc tận mắt tôi chứng kiến. Mẹ tôi và những bà Mẹ khác trong khu tập thể rất trân trọng vợ bác Đường vì khi mọi người khổ, vợ bác cũng rất khổ, có 1 thời khó khăn ( thời bao cấp) vợ bác chặt củi, tắm heo, lo cho chồng, nuôi 4 người con, trong trường không ai là không biết. Mẹ tôi nói vợ bác lớn tuổi hơn nhưng bác không khai nhỏ hơn hay bằng tuổi, không sợ thiên hạ dèm pha như những vị khác. Vì cảm thông cho hoàn cảnh của bác, vợ bác mà các bà Mẹ dạy con gái không qua lại với người đàn ông có vợ vì sẽ phá hạnh phúc của nhà người ta. Ba tôi nói Ba tôi phục bác Đường vì bác không gửi bất cứ đứa con nào đi học nước ngoài như những người khác. Lâu lâu tôi cũng nghe Ba tôi kể con trai bác ấy cũng trách bác ấy với người trong trường như bài hát “ Father and son”. Trong thời gian đó, mọi người trong khu tập thể đều để ý các con bác học ngành gì, không nhờ “bóng” cha, với tình cảm của con cái thì yêu ai gả đó, cưới đó không ép con phải môn đăng hộ đối, đám cưới thì không mời cả trường ( dù lúc đó bác mời chắc người ta cũng đi vì kính mến chứ không phải vì sợ). Sống đến thời buổi này, tôi mới thấy khi người ta quan sát người lãnh đạo, người ta sẽ nhìn ở khía cạnh người đó có tư lợi, vụ lợi, ỷ quyền cậy thế vun vén cho gia đình riêng của mình không. Nếu có thì người ta không phục và không theo.
Là người lãnh đạo ở gần nhân viên, tận mục sở thị cuộc sống xung quanh, lắng nghe quan sát nhân viên mình thì sẽ biết họ cần gì, muốn gì. Tôi nhớ đó là năm mà tôi nhận thấy sự biến đổi rõ rệt trong khu 1 và khu 2, đường xá trong cả 2 khu trước đó có những chỗ lồi, chỗ lõm, bọn con nít thường hay lấy cây vọc nước để nhìn những vệt nước nhiều màu do xăng của xe ô tô trường chạy qua để lại. Khi bác Đường làm hiệu trưởng thì đường xá ở 2 khu được tráng nhựa, sau đó thì còn có bảng chỉ cây số trên giờ ( 5km/h, 15 km/ h) như là ở ngoài đường vậy, có đường đắp cao lên 1 chút để giảm tốc độ, có nơi đổ rác sạch sẽ, thuận tiện chung cho từng dãy nhà, vệ sinh xung quanh đàng hoàng, chỉnh chu, cống nạo vét sạch sẽ, cây cối xanh tươi, mỗi Thầy cô, công nhân viên trong trường tham gia trồng 1 cây bàng trong khu 1, hàng rào trước dãy nhà sole là những hàng bông, tỉa cắt đàng hoàng, chúng tôi hay đu những cây ca cao, lượm trái dương chọi nhau, leo cây trứng cá, chơi đủ trò con trẻ ( cò chẹp, nhảy dây, chơi keo, đoàn tàu, táng u, thả diều, đá banh, cầu lông, bắn bi, đá dế than, dế lửa, đổ dế cơm, nhà chòi, đá cọc và cả leo cây…) con trai chơi trò gì con gái cũng chơi trò đó, trước sân nhà mấy khu tập thể và 2 sân bóng, nhưng mỗi lần gặp người lớn từ xa là chạy trốn, tụt xuống khoanh tay chào và đợi người lớn đi khỏi thì chơi tiếp

Thời bác Đường làm hiệu trưởng là những năm tháng Thầy Cô giáo, công nhân viên không phải lo toan về tiền bạc, đồng lương đủ sống và đời sống tinh thần phong phú ( thể dục thể thao, văn nghệ, văn hóa, du lịch), cách ăn mặc chỉnh chu, giao tiếp nhân bản, đầy tình người. Khu 1 có hai sân lớn chung, 1 sân trên ( xóm trên) là sân bóng chuyền, 1 sân ( xóm dưới) là sân bóng rổ, bác Đường cũng cho sơn sửa đàng hoàng, không làm sân nào cho 1 nhóm người nào mà dành cho mọi người. Chiều chiều con nít mọi nhà, người lớn có thể ra chơi thoải mái trên các sân. Lâu lâu chiếu phim ở sân xóm dưới, từ người lớn đến con nít đều xách chiếu, báo đi coi, phim được chọn lọc, không có cảnh làm tình, đánh nhau, chém giết hỗn loạn. Một năm tôi thấy tổ chức thi bóng chuyền trong khu 1 cho người lớn, cầu lông cho trẻ con, bóng đá trong khu 2 hết sức sôi động. Người lớn thi thố thì trẻ con la hét ủng hộ khích lệ động viên, trẻ con thi thì người lớn đứng xung quanh khích lệ tinh thần. Ban giám hiệu lúc đó đề xướng các hoạt động và tham gia cũng hết mình. Trên sân đấu không còn khoảng cách giữa lãnh đạo và nhân viên. Những đứa như bọn tôi thích cô chú, người quen nào thì ủng hộ đội đó vô tư. Mỗi năm ngoài kỳ thi văn nghệ cho sinh viên còn có kỳ biểu diễn văn nghệ dành cho giáo viên, các khoa, phòng ban luyện tập sôi nổi và đi coi khoa khác biểu diễn, đi ủng hộ khoa mình thi rất đông vui. Thầy Cô, nhân viên trong trường thi thố đàn, hát, múa, ngâm thơ, trẻ con thì ngồi xem, chạy ra chạy vào bắt dế, chơi năm mười xung quanh hội trường. Đó là thời gian mà cả bác hiệu trưởng và bác hiệu phó mời được những đoàn văn công văn nghệ nổi tiếng trong nước, những đoàn sinh viên nước ngoài ( Anh, Mỹ, Canada) về giao lưu văn hóa văn nghệ rất sôi nổi. Tôi không chơi được các nhạc cụ như những đoàn văn công trong nước, tôi chưa nghe hiểu được những gì anh chị sinh viên nước ngoài đó nói, hát gì nhưng tôi mơ ước là có ngày tôi sẽ được như họ, có thể đàn hát, được mặc đồ đẹp, hồn nhiên. Người lớn ai ai cũng vào đi xem đúng giờ trước giờ khai mạc, trình diễn, lắng nghe giới thiệu chương trình rồi thưởng thức đến cuối buổi, xem ban giám hiệu lên sân khấu phát biểu cám ơn, tặng hoa, ôm hôn chúc mừng buổi biểu diễn thành công mới về. Lãnh đạo ngồi xem đến cuối buổi thì không nhân viên nào bỏ về nữa chừng. Điều đó cũng tạo nên một nét văn hóa đẹp trong cách cư xử với khách, trước sau như một. Có một lần Ba tôi đố tôi “ Tại sao lên sân khấu thì mặc quần Tây chứ không mặc quần jeans ?”. Rồi Ba tôi giải thích là bác hiệu trưởng nói với mọi người biết quần jeans ở nước ngoài là quần dành cho cao bồi - người chăn bò, ngựa ( cowboy) nên lên sân khấu mặc quần jeans là không tôn trọng người khác. Bây giờ thử để ý, tôi thấy những chú bác thời Ba tôi đi làm, lên lớp, đi họp, đi lễ tiệc không có bộ comple, cà vạt nhưng không bao giờ mặc quần jeans, đặc biệt là lên sân khấu, mà áo sơ mi bỏ trong quần tây. Các cô, các bác và Mẹ tôi trong khu 1 không biết trang điểm, chỉ để da mặt tự nhiên nhưng mịn màng, ăn mặc giản dị chứ không được áo đầm như Tây, không ai nhuộm tóc xanh đỏ tím vàng, khi ra đường là thay đồ chứ không mặc đồ bộ, đồ ngủ. Là thời kỳ mà hội trường Rùa chỉ được sử dụng để biểu diễn văn hóa, văn nghệ và tổ chức cuộc thi đàn Organ của trẻ em, hội họp của trường đại học Cần Thơ và thành phố Cần Thơ. Không hoạt động quảng cáo, kinh doanh nào được phép mượn, thuê. Mỗi hè, gia đình công nhân viên trong trường được đăng ký, thay nhau đi du lịch ( Đà Lạt, Nha Trang, Vũng Tàu, Phan Thiết, Huế, Hà Nội…). Từ những lần đi tham quan đó mà bọn con nít như tôi được biết phong cảnh đất nước mình đẹp, mỗi nơi, mỗi vùng có nét đẹp khác nhau, mỗi nơi nổi tiếng về cái gì, món ăn gì, khác Cần Thơ điểm gì.
Năm tháng trôi qua thời nhiệm kỳ của bác Đường, tôi nhớ đó là thời kỳ nhà tôi không than thở về vật chất, cơm áo gạo tiền và nhà tôi hạnh phúc, Ba tôi có nhiều điều vui để kể, Mẹ tôi ít nhăn nhó tiền bạc, chúng tôi không học tập căng thẳng, được phát huy sở trường của mỗi đứa ( thể thao, ca hát, múa, thể dục nhịp điệu, đánh đàn, đánh trống…) và có một môi trường thiên nhiên thật lý tưởng trong khu 1 đó.
Chúng tôi được lớn lên trong 1 môi trường được phát triển hài hòa về nhân cách, tự nhiên thoải mái về tinh thần đến nỗi giờ ở những phương trời khác nhau, chúng tôi đều vẫn nhớ về 1 thời hồn nhiên, thoải mái, vô tư ấy như nó mới chỉ đâu đây ngày hôm qua. Các Thầy Cô giáo, Ba Mẹ tôi trong khu tập thể không phải lo lắng con hư, chúng tôi không chửi thề ( vì xung quanh người lớn không chửi hoặc không chửi trước mặt con cái ), mỗi ngày Ba Mẹ chúng tôi cứ việc giao chìa khóa rồi đi làm, đứa nào cũng biết nấu cơm, làm những công việc nhà Ba Mẹ đã hướng dẫn 1 cách tự giác. Chúng tôi biết sống trong một môi trường vì người khác, ăn nói nhỏ nhẹ, lễ phép và khi ai có hoạn nạn thì đều giúp nhau. Chúng tôi biết Ba Mẹ mỗi đứa đi dạy hay đi làm, làm việc ở khoa nào, dạy môn gì, làm công nhân viên phục vụ, trồng cây, bảo vệ, tài xế lái xe… trong trường nhưng không bao giờ so sánh nhau, chúng tôi chơi vui với nhau hết sức chân thành. Người lớn đánh giá con nít xung quanh là có ngoan không, học giỏi không chứ không đánh giá là Ba Mẹ làm chức phận gì trong trường. Ba tôi luôn cười vui vẻ nói với mọi người là Ba tôi làm cu li ( sửa điện, nước), Mẹ tôi làm y sĩ ở phòng y tế trong trường, nhưng chưa bao giờ các anh chị, bạn bè trong khu ấy làm tổn thương tôi, tôi cũng không tự ti về nghề của Ba Mẹ mình. Hai chị em tôi luôn được mặc đồ đẹp, tươm tất. Ba Mẹ tôi không tạo cho tôi áp lực là phải học giỏi, cũng không chọn trường điểm gì, đa số đều học gần nhà và nếu học trường chuyên là tự con cái chọn chứ người lớn không ép. Bây giờ tôi nghĩ lại mới thấy, trường học giỏi và trẻ con được phát triển toàn diện nhất không phải là trường điểm, ở trung tâm thành phố, mà là trường có con em của các thầy cô đại học học ở đó. Các anh chị đi trước trong khu tập thể là tấm gương cho đàn em đi sau, ai học giỏi, thi đậu mấy trường đại học đều là tấm gương cho con nít cả trường và ở ngoài trường, cứ thế mà trong đám trẻ con có làn sóng cạnh tranh ngầm, tự chủ tự giác, Ba Mẹ không nhắc cũng tự học.
Không cùng làm việc với nhân viên, đồng nghiệp, quan sát, lắng nghe thì không thể biết họ cần gì, muốn gì. Nơi làm việc, nghiên cứu của bác Đường là 1 phòng ở dãy nhà sole cũng trong khu tập thể đó, bác hiệu phó cũng có 1 nơi làm việc tương tự ở gần đó. Xen kẽ với dãy nhà đó là các chuyên gia nước ngoài đến từ nhiều nước, già có, trẻ có, ai cũng vui vẻ, dễ thương. Chúng tôi có dịp luyện tập tiếng Anh, Pháp với người nước ngoài và kết bạn với con của họ. Tôi thấy người nước ngoài sáng sáng hoặc tối tối chạy bộ vòng quanh khu 1 nên bọn con nít cũng bắt chước theo. Ở phía bên ngoài là phòng nhà khách số 1 cho khách công tác trong nước, phòng tài vụ, khu hiệu bộ của ban giám hiệu, phòng hợp tác quốc tế, phòng công đoàn, dãy nhà khách cho giáo sư, chuyên gia thỉnh giảng. Mọi người làm việc nhịp nhàng, gắn kết, việc ai nấy làm và tin tưởng nhau. Lâu lâu Ba Mẹ tôi có việc liên quan giấy tờ, dẫn tôi đi vào các phòng đó, giới thiệu tôi biết các bác, cô chú, ai cũng đối xử vui vẻ, khen tôi ngoan khi tôi khoanh tay chào và tôi thích môi trường ngăn nắp, qui cũ trong các phòng làm việc đó.
Khi tôi ở lại trường đi dạy, Thầy Cô bộ môn tôi cũng thường hay hoài niệm, nhắc về 1 thời “hoàng kim” khi bác Đường làm hiệu trưởng, là thời lương bổng công minh, làm theo năng lực và công sức, hưởng theo năng lực và thành quả, cơ sở vật chất không được tân tiến như nước ngoài nhưng ai cũng yên tâm giảng dạy, phát triển chuyên môn, quan tâm lẫn nhau. Thầy Cô có 1 câu nói rất tiếu lâm mà thực tế nên tôi nhớ hoài “ Muốn biết đời sống nhân viên thời đó có khá không, đủ ăn không thì mở toilet sẽ biết, thời nào đủ ăn thì toilet nhà đó đầy, thời nào đói thì toilet nhà đó rỗng”. Nói về cái toilet tôi mới nhớ, Ba tôi làm điện nước, đi gắn sửa toilet trong khu hiệu bộ, nhà các bác trong khu 1 đi Tây về và Ba tôi cũng áp dụng cái đó cho nhà tôi. Ba tôi nói toilet không cần bóng loáng, sang trọng nhưng phải giữ gìn sạch sẽ, người ta vào nhà mình, nhìn toilet nhà mình là đã biết văn hóa, cách ăn ở nhà mình. Ba tôi nói đó là bác hiệu trưởng, hiệu phó đã nói với Ba tôi vậy. Sau đó tôi đi đâu, tôi cũng nhìn vô toilet

Bác Đường là người có công gầy dựng trung tâm ngoại ngữ của trường Đại học Cần Thơ, đưa bộ giáo trình tiếng Anh Interaction, Mosaic của Mỹ đủ kỹ năng về dạy ở trung tâm ngoại ngữ và chuyên ngành tiếng Anh ở trường, thỉnh mời được giáo sư Mỹ về hướng dẫn cho giáo viên cách dạy và dạy cho cả sinh viên chuyên ngành. Người người, nhà nhà những năm 90s lúc ấy đi học tiếng Anh buổi tối một cách bài bản. Thầy Cô lúc đó ai học bài bản thì đều có thể đi nước ngoài học mà không sợ rào cản ngôn ngữ. Tôi mới phát hiện em nào mà học được bộ giáo trình này thì qua Mỹ học sẽ không thua ai. Đó là 1 giai đoạn mà Ba tôi cứ hay nhắc tôi “ học ngoại ngữ tới đâu rồi ?” và tôi xin tiền đi mua áo quần không cho nhưng xin tiền đi học ngoại ngữ là có bao nhiêu Ba tôi cũng lo đủ. Sinh viên chuyên ngành tiếng Anh cũng học ngành đó, cho đến giờ tôi mới nhận ra, tôi vững các kỹ năng là nhờ tôi được học bài bản từ bộ giáo trình đó từ hồi đại học, rồi từ từ khi tôi tự tin thì tự nhiên tôi sẽ phát huy. Khi còn là sinh viên qua lời kể của 1 người Thầy, tôi luôn ngưỡng mộ một anh, một thế hệ sinh viên được học với giáo sư Mỹ ở đại học Cần Thơ có đủ năng lực và trình độ được tuyển làm ở đại sứ quán Mỹ ở thành phố Hồ Chí Minh. Tôi cũng đã từng mơ ước như thế, muốn khuyến khích học trò như thế, rằng phải biết hy vọng, ước mơ, học tiếng Anh không đơn thuần là học 1 ngoại ngữ mà là học văn hóa, cách ứng xử, biết so sánh để tìm cái hay cái đẹp học hỏi nhưng không quên nét thuần Việt của mình và có thể mơ ước được làm việc cho đại sứ quán, tổng lãnh sự nói tiếng Anh ở Việt Nam.
Bản thân tôi nhớ rõ bác Đường một lần đã gián tiếp cứu mạng sống của tôi. Đó là năm 1996 ( tôi mới vào lớp 11) là nhiệm kỳ 2 của bác Đường, 1 lần Mẹ tôi phát hiện tôi nổi đỏ đầy người, các vết không lặn khi ấn tay vào và đó không phải do dị ứng. Mẹ tôi dẫn tôi đi xét nghiệm máu ở bệnh viện đa khoa Cần Thơ và cả nhà tôi bàng hoàng vì tôi bị xuất huyết giảm tiểu cầu sắp xuất huyết não không biết nguyên nhân và có thể chết nếu không cứu kịp trong ngày. Mẹ tôi khóc tuyệt vọng, các bác, cô chú trong trường và nhà khách khu 1 động viên Ba Mẹ tôi và nói sẽ xin 1 xe cho tôi lên thành phố Hồ Chí Minh cấp cứu và truyền tiểu cầu liền. May mắn cho tôi lúc đó 1 giáo sư thỉnh giảng từ trường đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh vừa dạy xong và đến giờ trở về, giáo sư ấy cũng là Thầy của Mẹ tôi nhưng Thầy trò gặp nhau trong 1 trường hợp hết sức bất đắc dĩ. Giáo sư đó không ăn cơm trưa tại nhà khách nữa mà hối chú tài xế của trường chở tôi đi ngay. Lên trung tâm huyết học và truyền máu quận 5, giáo sư xuống xe dẫn Mẹ con tôi vào gửi ông giám đốc bệnh viện và không quên nói “ Anh ráng giúp cháu, Ba Mẹ cháu làm nhân viên công tác ở trường Đại học Cần Thơ”. Tôi được cứu sống trong gang tấc. Cả nhà tôi luôn thấy số tôi may mắn, các bác cô chú ở phòng khách ở trường đại học Cần Thơ năm xưa đã tiếp 1 tay 1 sức. Nếu lúc ấy bác Đường không điều hành tốt, các khoa ngành không thỉnh giảng những giáo sư giỏi, tâm huyết, không sắp xếp điều hành rước người đến nơi, đưa người về đến chốn như thế thì liệu tôi có cơ may được ưu tiên, được cấp cứu và sống sót đến ngày hôm nay.
Nói về sự sống, chết tôi cũng thấy rõ trong khu 1 trường thời bác Đường. Mọi người quan tâm nhau rất tình người, khi bất cứ ai công tác trong trường, đã về hưu ở nhà trong hay ngoài khu tập thể, gia đình người nhà đang sống trong khu 1, khu 2 mất thì ở bảng thông báo trường đều có tin buồn, lịch viếng thăm, qui định mặc đồ, ngày giờ địa điểm tập trung để có xe trường đi đưa rước. Từ nhỏ đến lớn, không ít người ở thế hệ của tôi ( 7X, 8X) đã chứng kiến đám ma hoặc đi thắp nhang cho người đã khuất trong khu 1, người cao tuổi, thanh niên, người trẻ đều có. Tôi thấy không khí u buồn, trầm lắng, mọi người lịch sự, trầm lắng như trong đám ma ở nước Úc mà tôi chứng kiến. Tôi cũng nghe đọc điếu văn và nghe tiếng sụt sịt khi trong điếu văn có nhắc đến những gì người đã khuất đã làm và người còn sống vẫn còn nhớ. Thế hệ tôi biết thế nào mất mát của người xung quanh, bạn bè, đồng nghiệp vì được Ba Mẹ chở đi viếng thăm đám ma, thắp nhang những người từng gặp hằng ngày và theo xe trường ra nghĩa trang. Mọi người đều chờ đợi đến khi mọi việc kết thúc và ra về, ít ai quan tâm đến công việc, chậm trễ kinh doanh mà ai cũng nghĩ “ nghĩa tử là nghĩa tận”. Cũng như bao đứa con nít, tôi thường nghe kể chuyện ma và sợ ma nhưng khi đứng trước huyệt mộ, thấy người lớn khóc, tôi cũng lặng lẽ rơi nước mắt, không phải vì tôi bắt chước mà tôi thấy sau khi mỗi người bỏ 1 nắm đất, nắm cát xuống huyệt, rồi người ta lấp cát lên là lúc tôi hiểu người ta sẽ ở luôn dưới đó và tôi không còn gặp mặt được nữa.
Khi bác Đường hết nhiệm kỳ, ra đường ai gặp cũng cúi đầu chào thành kính và hay nhắc về Thầy Đường. Mọi người nhớ về 1 thời qui cũ nề nếp, ai nghiên cứu tốt, làm việc tốt thì lương cao, ai cũng đủ sống, đời sống văn hóa tinh thần được phát triển khi bác làm hiệu trưởng. Bác vẫn công tác tại trường, vẫn quan sát và có ý kiến những điều không hay, không đẹp, trái thuần phong mỹ tục Việt Nam với Ban giám hiệu đương nhiệm. Tôi nhớ khi tôi học đại học, Ba tôi có về kể tôi nghe những chuyện bác gửi đơn kiến nghị trường không cho treo băng rôn quảng cáo băng vệ sinh Kotex khi họ tài trợ cuộc thi người mẫu học đường học sinh phổ thông và mượn hội trường Rùa của trường để tổ chức. Ba con tôi hoàn toàn nhất trí, cái gì là chuyện vệ sinh, kín đáo mà trương lên trong trường đại học thì còn gì là thuần phong, mỹ tục người Việt, dạy dỗ nghiên cứu ai. Ở Úc là xứ tự do, khi treo quảng cáo viagra cho đàn ông, người ta cũng lên tiếng, bàn cãi rồi cũng treo ở chỗ thật cao, ở xa lộ, không gần trường học. tránh xa tầm mắt trẻ con. Thầy Cô tôi ở Úc nói trường học không thể là nơi quảng cáo chuyện riêng tư, ai có làm thì dán thông báo nhỏ ở cột, bệnh viện không treo pano áp phích giới thiệu thuốc vì những điều đó là biểu hiện của quảng cáo và làm người học, người bệnh tin, làm theo. Rồi chuyện Ba tôi kể bác Đường gửi thư không đồng ý cho bán quán café ở trung tâm học liệu với ban giám hiệu. Ba tôi và tôi nói chuyện với nhau, rồi thấy đúng, nơi giảng đường nghiên cứu học tập, bộ mặt của trường thì không thể có cảnh quán café người phì phèo thuốc, người gác chân lên ghế, cười giỡn như ngoài chợ được. Mới đây tôi cũng biết bác đã gửi đơn kiến nghị cảnh sát giao thông gỡ những pano, áp phích giáo dục luật giao thông ở khu 2. Bao nhiêu chuyện mà tôi tai nghe, mắt thấy đó làm tôi nể phục, quý trọng bác Đường, một người lãnh đạo có tầm nhìn và có cái tâm chuẩn mực văn hóa Việt Nam. Sống cùng với nhân viên, làm việc với nhân viên, lắng nghe nhân viên, truyền đạt những gì mới mẻ cho nhân viên rất thuyết phục, có tình có lý, không vụ lợi gì gia đình. Người ta không nghe những gì lãnh đạo nói, hứa, dạy bảo giáo điều, người ta chỉ nhìn những gì lãnh đạo làm, thực hiện có trước sau như một không, người ta có được nhìn nhận, tôn trọng, thanh thản, tâm an không.
Bây giờ ở tuổi này, chưa già nhưng cũng không còn teen, đúc kết những gì tôi thấy, so sánh ở trường học và trường đời, ở Việt Nam và ở phương Tây thì bác Đường xứng đáng là người lãnh đạo toàn tài, nhân nghĩa và ảnh hưởng lớn đến cách nhìn, cách sống của những ai đã biết, làm việc với bác. Đối với mọi người trải qua thời bác, vàng bạc chắc chắn không làm họ hạnh phúc mà họ hạnh phúc khi được phát triển đầy đủ về thể chất ( phần con) , thanh thản bình yên ở tâm hồn ( phần người). Ở gia đình tôi, Ba Mẹ tôi vẫn nhắc về với lòng thành kính, biết ơn và trân trọng; Thầy Cô đồng nghiệp tôi vẫn còn hồi tưởng và khen ngợi, những đứa trẻ con ở thế hệ tôi không sợ khó khăn, không coi trọng đồng tiền mà trọng nhân nghĩa, học trò tôi cũng biết về bác qua chuyện kể của những Thầy Cô khác của họ. Trong 1 trường đại học mà khi hỏi từ giáo sư nghiên cứu, người làm việc chung đến tài xế, người gác cổng, người làm culi như Ba tôi mà ai cũng khen, gặp lại bác ở ngoài đường người ta ngả nón mũ, cúi chào thì chắc hẳn bác Đường chính là người đã đem đến niềm vui, hạnh phúc và ở mãi trong lòng họ. Có 1 người bạn cùng tuổi của tôi đã viết “Có những người mà nếu nhìn lại không ai có thể phủ nhận những thành quả mà họ đã làm được cho cộng đồng của họ, cái tâm và tài năng của họ có sức ảnh hưởng và lan truyền không chỉ là ở một thế hệ, nhưng tiếc là không ai 'viết' về họ cả, đương nhiên là những người như vậy, họ sống vì người khác nhiều hơn bản thân họ nên họ không bận tâm đến việc ai viết về họ, ca ngợi hay ghi nhận họ, nhưng N nghĩ con cháu đời sau cần biết là có một con người như thế.” Và hôm nay tôi chỉ xin chia sẻ với những anh chị em thế hệ tôi, đã từng 1 thời lớn lên ở đại học khu 1, bạn bè tôi, học trò tôi là ở Cần Thơ đã có 1 người lãnh đạo mẫu mực, có tâm có tầm và biết học hỏi cái hay cái đẹp từ phương Tây để áp dụng nhưng vẫn giữ đúng thuần phong mỹ tục Việt Nam như thế.
@ Mai Đinh
Những đứa trẻ con chúng tôi ( thế hệ 7X, 8X) được đi tham quan ở Cao Lãnh, Đồng Tháp vào mùa hè 06/1990


Gia đình giáo viên, công nhân viên trường Đại học Cần Thơ đi tham quan Đà Lạt hè tháng 06/1991


Subscribe to:
Posts (Atom)